See also ebooksgratis.com: no banners, no cookies, totally FREE.

CLASSICISTRANIERI HOME PAGE - YOUTUBE CHANNEL
Privacy Policy Cookie Policy Terms and Conditions
Liban – Wikipedia tiếng Việt

Liban

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

الجمهوريّة اللبنانيّة
Al-Jumhuriyah al-Lubnaniya
Quốc kỳ Liban
Quốc kỳ
Khẩu hiệu
Kūllūnā li-l-waṭan, li-l-'ula wa-l-'allam
(Tiếng Ả Rập: "Toàn dân! Vì Tổ quốc, vì Quốc hiệu và Vinh quang!")
Quốc ca
Kulluna lil-watan lil 'ula lil-'alam
Vị trí của Liban
Thủ đô
(và là thành phố lớn nhất)
Beirut
33°54′N, 35°32′E
Ngôn ngữ chính thức Tiếng Ả Rập[1]
Chính phủ Cộng hòa
 -   • Tổng thống
 • Thủ tướng
Émile Lahoud
Fouad Siniora
Độc lập
 -   • Tuyên bố
 • Công nhận
 
Diện tích
 -  Tổng số 10,452 km² (hạng 161)
 -  Nước (%) 1,6%
Dân số
 -  Ước lượng 2005 3.826.018[2] (hạng 123)
 -  Điều tra 1932 861.399[3] (hạng 123)
 -  Mật độ 358 /km² (hạng 16)
GDP (PPP) Ước tính 2005
 -  Tổng số $19,49 tỷ đô la Mỹ (hạng 116)
 -  Theo đầu người $5,100 đô la Mỹ (hạng 130)
HDI (2003) 0,759 (trung bình) (hạng 81)
Đơn vị tiền tệ Bảng Liban (LBP)
Múi giờ EET (UTC+2)
 -  Mùa hè (DST) EEST (UTC+3)
Tên miền Internet .lb
Mã số điện thoại +961

Cộng hòa Liban (tiếng Pháp: Liban; tiếng Ả Rập: الجمهوريّة اللبنانيّة Al-Jumhuriyah al-Lubnaniya) là một quốc gia nhỏ tại vùng Trung Đông. Liban có nhiều núi, nằm cạnh bờ biển đông của Địa Trung Hải. Nó giáp với Syria về phía Bắc và Đông, và Israel về phía Nam, có bờ biển hẹp dọc theo ranh giới Tây. Quốc kỳ Liban có cây tuyết tùng Liban màu xanh trên nền trắng, và hai đường sọc đỏ có chiều cao một phần tư.

Cái tên Lebanon (viết theo tiếng Anh) (cũng được viết là "Loubnan" hay "Lebnan") có nguồn gốc từ ngôn ngữ Semitic, nghĩa là "trắng", để chỉ đỉnh núi tuyết phủ ở Núi Liban.

Trước cuộc nội chiến (1975–1990), nước này được thịnh vượng đáng kể. Vào tháng 6 năm 2006, phần lớn của nước này được ổn định hóa, xung đột giữa Israel và Hezbollah làm cả lính và thường dân bị thương nặng nề, cơ sở hạ tầng dân cư bị hư nặng nề, và nhiều dân bị đuổi ra nhà cửa.

Mục lục

[sửa] Lịch sử

Bài chi tiết: Lịch sử Liban

[sửa] Chính trị

Tiêu bản:Chính trị Liban

Bài chi tiết: Chính trị Liban

Liban là một nước cộng hoà trong đó ba chức vụ cao nhất được dành cho các thành viên thuộc các nhóm tôn giáo cụ thể:

  • Tổng thống phải là tín đồ Cơ đốc Thiên chúa giáo Maronite.
  • Thủ tướng phải là tín đồ giáo phái Hồi giáo Sunni, và
  • Chủ tịch Nghị viện phải là một tín đồ Hồi giáo Shi'a.

Sự sắp đặt này là một phanà của "Hiệp ước Quốc gia" (tiếng Ả Rập: الميثاق الوطني - al Mithaq al Watani), một thỏa thuận không được ghi thành văn bản được đưa ra năm 1943 trong cuộc gặp gỡ giữa tổng thống đầu tiên của Liban (một tín đồ Maronite) và thủ tướng đầu tiên (một tín đồ Sunni), dù nó không được chính thức hóa trong Hiến pháp Liban cho tới tận năm 1990, tiếp sau Thỏa thuận Taif. Hiệp ước gồm cả một lời hứa của những người Thiên chúa giáo không tìm kiếm sự bảo vệ của Pháp và chấp nhận "bộ mặt Ả Rập" cho Liban, và lời hứa của người Hồi giáo công nhận sự độc lập và tính hợp pháp của nhà nước Liban trong biên giới được vạch ra năm 1920 và từ bỏ tham vọng liên bang với Syria. Hiệp ước này dù khi ấy chỉ là một thỏa hiệp tạm thời, vẫn rất cần thiết cho tới khi Liban thật sự có được một sự đồng nhất quốc gia. Nó vẫn tiếp tục hiện diện và các cuộc nội chiến tiếp diễn sau đó tiếp tục có ảnh hưởng thống trị tới chính trị Liban.

Hiệp ước cũng quy định rằng số ghế trong Nghị viện phải được phân chia theo tôn giáo và theo vùng, với tỷ lệ 6 thành viên Thiên chúa giáo trên 5 thành viên Hồi giáo, một tỷ lệ dựa trên cuộc điều tra dân số năm 1932, được tiến hành ở thời điểm các tín đồ Thiên chúa giáo vẫn chiếm một đa số nhỏ. Thỏa thuận Taif thêm rằng tỷ lệ số ghế của hai tôn giáo sẽ là ngang nhau.

Hiến pháp cho phép người dân thay đổi chính phủ. Mặc dù, từ giữa thập niên 1970 cho tới cuộc bầu cử nghị viện năm 1992, cuộc nôi chiến đã không cho phép người dân thực thi quyền này. Theo hiến pháp, các cuộc bầu cử nghị viện trực tiếp phải được tiến hành bốn năm một lần. Cuộc bầu cử gần đây nhất diễn ra năm 2000; cuộc bầu cử dự định năm 2004 đã bị trì hoãn một năm.

Thành phần nghị viện dựa trên sắc tộc và tôn giáo nhiều hơn ý thức hệ. Sự phân chia số ghế trong nghị viện gần đây đã được thay đổi.

Tiêu bản:Nghị viện Liban Nghị viện bầu ra Tổng thống nước cộng hòa với nhiệm kỳ sáu năm. Tổng thống bị cấm giữ nhiệm kỳ liên tục. Quy định hiến pháp này đã được thông qua bởi hai lần sửa đổi gần đây, tuy nhiên, dưới sức ép của chính phủ Syria. Nhiệm kỳ của Elias Hrawi đúng ra đã kết thúc năm 1995, nhưng được kéo dài thêm ba năm nữa. Việc này lại được lặp lại năm 2004 cho phép Emile Lahoud tiếp tục giữ ghế tới năm 2007. Những người ủng hộ dân chủ đã phản đối những hành động này.

Cuộc bầu cử tổng thống cuối cùng diễn ra năm 1998. Tổng thống chỉ định Thủ tướng dựa trên sự đề xuất của Nghị viện. Liban có nhiều đảng chính trị, nhưng vai trò của chúng kém quan trọng trong đa số các hệ thống nghị viện. Trên thực tế, đa số chỉ đại diện cho quyền lợi của riêng mình; nhiều người trong số họ được lọt vào danh sách ứng cử viên chỉ vì là người nổi tiếng trong nước hay trên thế giới. Phiếu bầu thường dựa theo các cuộc đàm phán giữa các lãnh đạo địa phương, lãnh đạo dòng họ, các nhóm tôn giáo và các đảng chính trị; những liên minh lỏng lẻo này chỉ tồn tại trong thời gian bầu cử và hiếm khi hợp tác chặt chẽ với nhau thành một khối trong Nghị viện sau đó.

Hệ thống tư pháp Liban dựa trên Luật Napoléon. Các bồi thẩm đoàn không hiện diện tại các phiên xử. Hệ thống tòa án Liban có ba mức - tòa sơ thẩm, tòa phúc thẩm, và tòa phá án. Cũng có một hệ thống tòa án tôn giáo có quyền tái phán đối với các cá nhân bên trong cộng đồng của họ, phán xử các vụ như hôn nhân, ly dị, và thừa kế. Luật pháp Liban không quản lý hôn nhân dân sự (dù nó vẫn quản lý các cuộc hôn nhân có yếu tố nước ngoài); những nỗ lực của cựu Tổng thống Elias Hrawi nhằm hợp pháp hóa hôn nhân vào cuối thập kỷ 1990 về vấn đề này chỉ nhận được sự phản đối từ các giáo sĩ Hồi giáo. Ngoài ra, Liban có một hệ thống các tòa án quân sự cũng có quyền tài phán đối với cá nhân dân sự đối với các tội như gián điệp, phản bội, và các tội khác bị coi có liên quan tới an ninh. Các tòa án quân sự này bị các tổ chức nhân quyền như Ân xá quốc tế chỉ trích vì "vi phạm nghiêm trọng các tiêu chuẩn quốc tế về xét xử công bằng" và có "quyền tài phán quá rộng đối với các công dân".

[sửa] Các vùng hành chính

Liban được chia thành sáu vùng thủ hiến (mohafazat, số ít - mohafazah), các vùng này lại được chia thành 25 quận (Aqdya, số ít - qadaa), cũng như thành nhiều khu đô thị bao quanh một nhóm các thành phố hay làng mạc.

  • Vùng thủ hiến Liban
  • Các quận Liban
  • Thể loại:Các thành phố và làng mạc tại Liban
Phân chia hành chính
Phân chia hành chính

[sửa] Địa lý

Bài chi tiết: Địa lý Liban
Xem thêm: Vùng phía nam Liban

Là một quốc gia ở phía đông vùng Trung Đông, Liban giáp với Địa Trung Hải ở phía tây (bờ biển: 225 km) và phía đông giáp với Vùng trũng Syria-Châu Phi. Liban có 375 km biên giới ở phía bắc với Syria và 79 km biên giới ở phía nam với Israel. Biên giới với Israel đã được Liên hiệp quốc thông qua (xem Đường Xanh (Liban)), dù một phần lãnh thổ nhỏ, gọi là Shebaa Farms nằm trong Cao nguyên Golan được Liban tuyên bố chủ quyền nhưng bị Israel chiếm đóng, Israel tuyên bố trên thực tế vùng đất này thuộc Syria. Liên hiệp quốc đã chính thức tuyên bố vùng này thuộc Syria và không phải lãnh thổ của Liban, nhưng Hezbollah thỉnh thoảng tung ra các đợt tấn công vào Israeli vào các vị trí bên trong đó, với danh nghĩa giải phóng lãnh thổ Liban.

[sửa] Kinh tế

Bài chi tiết: Kinh tế Liban

Liban có một nền kinh tế dựa trên thị trường. Kinh tế theo định hướng dịch vụ; các lĩnh vực tăng trưởng chính gồm ngân hàng và du lịch. Không hề có hạn chế trao đổi ngoại tệ hay di chuyển đồng vốn, và độ bảo mật ngân hàng rất chặt chẽ. Đặc biệt không hề có hạn chế đối với đầu tư nước ngoài.

Cuộc nội chiến giai đoạn 1975-1991 đã tàn phá nghiêm trọng hạ tầng kinh tế Liban, làm giảm một nửa sản lượng sản xuất, và chấm dứt vị trí trung tâm phân phối vùng đông Trung Đông và đầu mối ngân hàng của nước này. Hòa bình giúp chính phủ trung ương tái kiểm soát quyền lực ở Beirut, bắt đầu thu thuế và tái kiểm soát cảng biển chính và các cơ sở chính phủ. Kinh tế hồi phục nhờ một hệ thống tài chính ngân hàng lành mạnh và nhờ sự phục hồi nhanh chóng các cơ sở sản xuất nhỏ và vừa với các khoản tiền hỗ trợ gia đình gửi về từ nước ngoài, các dịch vụ ngân hàng, xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp, trợ giúp nước ngoài và các nguồn trao đổi ngoại tệ.

Trong những năm qua Liban đã có bước phát triển đáng kể. Mức tài sản của các ngân hàng đạt tới tới hơn 70 tỷ dollar. Thậm chí với mức giảm sút 10% trong lĩnh vực du lịch năm 2005, hơn 1.2 triệu khách đã tới nước này. Sự tư bản hóa thị trường đang ở mức cao nhất. Tư bản hóa đạt hơn 7 tỷ dollar vào cuối tháng 1 năm 2006. Tuy nhiên, với hậu của những cuộc tấn công từ phía Israel vào tháng 7 năm 2006, nền kinh tế nước này bắt đầu bước vào giai đoạn suy thoái nghiêm trọng.[cần chú thích]

[sửa] Nhân khẩu

Bài chi tiết: Nhân khẩu Liban

Dân số Liban gồm ba nhóm sắc tộc và tông giáo chính: Hồi giáo (Shi'ites, Sunnis, Alawite), Druze, và Thiên chúa giáo (đa số là Thiên chúa Maronite, Nhà thờ chính thống Hy Lạp, Tông đồ Armenia, Thiên chúa Melkite Hy Lạp, cũng như Chính thống Syria, Thiên chúa Armenia, Thiên chúa Syria, Chaldean, Thiên chúa Rôma Nghi thức Latin, Assyria, Thiên chúa giáo Ai Cập và Tin Lành).

Không có số liệu điều tra dân số chính thức nào được tiến hành từ năm 1932, phản ánh sự nhạy cảm chính trị tại Liban về sự cân bằng tôn giáo. Theo ước tính khoảng 35% dân số là tín đồ Thiên chúa giáo, 35% là người Hồi giáo Shia, 25% là người Hồi giáo Sunni và 5% thuộc đạo Druze. Từng có một số lượng nhỏ người Do Thái, chủ yếu sống tại trung tâm Beirut. Tương tự, một cộng đồng nhỏ (chưa tới 1%) người Kurds (cũng được gọi là Mhallamis hay Mardins) sống tại Liban. Có gần 15 triệu người Liban sống trên khắp thế giới, chủ yếu là tín đồ Thiên chúa giáo, Brasil là nước có cộng đồng người Liban ở nước ngoài lớn nhất thế giới. Argentina, Úc, Canada, Colombia, Pháp, Mexico, VenezuelaHoa Kỳ cũng là những nước có số người nhập cư vào Liban đông đảo.

360,000 người tị nạn Palestine đã đăng ký với Cơ quan cứu trợ và việc làm Liên hợp quốc (UNRWA) tại Liban từ năm 1948, ước tính số người này hiện còn khoảng từ 180,000 đến 250,000.

Dân số thành thị, tập trung chủ yếu tại Beirut và Núi Liban, có số lượng doanh nghiệp thương mại rất đáng chú ý. Một thế kỉ rưỡi di cư rồi quay trở lại khiến mạng lưới thương mại của người Liban mở rộng trên toàn cầu từ BắcNam Mỹ tới Châu Âu, Vịnh Ba TưChâu Phi. Liban có lực lượng lao động trình độ và tay nghề cao gần tương đương với đa số các nước Châu Âu.

[sửa] Giáo dục

  1. redirect Template:Wiki hóa
Bài chi tiết: Giáo dục tại Liban

[sửa] Lịch sử giáo dục Liban

Hai bộ đầu tiên quản lý giáo dục ở Liban là Bộ giáo dục và giáo dục cao học, và Bộ nghề nghiệp và đào tạo kỹ thuật, để thúc đẩy hệ thống giáo dục Liban. Năm 1946, sau khi giành độc lập (26 tháng 11, 1941) chính phủ đã thông báo chương trình giảng dạy cũ, từ thời bảo hộ Pháp, bằng các chương trình đào tạo mới và ngôn ngữ Ả Rập được dùng làm ngôn ngữ giảng dạy chính tại mọi trường, mang tính bắt buộc đối với mọi cấp học. Chính phủ cũng cho phép mọi sinh viên quyền tự do chọn lựa ngôn ngữ thứ hai hay thứ ba (tiếng Pháp, tiếng Anh, vân vân). Sau đó vào năm 1968 và 1971, chương trình giảng dạy lại được sửa đổi một lần nữa. Mỗi bậc giáo dục được quy định với mục tiêu chi tiết và nội dung các kỳ thi cũng được tiêu chuẩn hoá. Trước chiến tranh, năm 1975, Liban có tỷ lệ biết chữ thuộc hàng cao nhất thế giới Ả Rập. Hơn 80% người dân Liban biết đọc và viết. Nhưng kể từ đó, Liban trở thành một đất nước hỗn loạn làm héo hon nhân dân, tất cả đều vì lý do nội chiến và sự can thiệp nước ngoài. Khi cuộc chiến được tuyên bố "kết thúc", người dân Liban đã bắt đầu tái thiết lại xã hội của mình, thúc đẩy giáo dục thông qua các biện pháp tự do hoá và khuyến khích.

[sửa] Trường học tại Liban

Các trường học ở Liban được chia theo ba tiêu chí - trường tư, trường công và bán công. Các trường công thuộc quyền quản lý của chính phủ (Bộ Giáo dục) và miễn phí, được hỗ trợ từ tiền thuế. Bộ Giáo dục cung cấp cho các trường công mọi cuốn sách cần thiết, đối với mỗi cấp giáo dục, số học phí hầu như không đáng kể và thường là miễn phí. Các trường bán công, đa số là trường của nhà thờ như Ecoles des Saint Coeurs, hoạt động như các trường tư nhưng cũng không thu học phí giống như trường công. Các trường còn lại có thu học phí nhưng vẫn được hưởng trợ cấp của chính phủ.

Chính phủ buộc mọi trường học ở Liban đều phải theo một chương trình giảng dạy do Bộ giáo dục đưa ra. Các trường tư có thể thêm các môn học khác nhưng phải được sự đồng ý của Bộ Giáo dục. Ví dụ, các tiết học máy tính có tại hầu hết các trường học dù không thuộc trong chương trình giảng dạy chính thức. Đối với các trường học không có cơ sở vật chất dạy môn này, mọi sinh viên quan tâm đều có thể theo học các khoá máy tính tại các học viện hay các trung tâm khác có mặt ở hầu hết các vùng của Liban.

Tổng số trường công là 192 trường trung học và 1,125 trường tiểu học. Trong số trường trung học, 16 trường dành riêng cho nam sinh và 12 cho nữ sinh, 164 trường còn lại cho cả hai giới. Các trường tiểu học có tổng số 238,556 học sinh với 24,463 giáo viên. Ở tất cả các trường, học sinh được học với các giáo viên chuyên trách từng môn, không có giáo viên chung cho tất cả các môn. Mỗi lớp có khoảng 25 học sinh (một số trường công có thể lên tới 40 học sinh vì thiếu giáo viên). Các môn học chính là Toán học, Khoa học, Lịch sử, Giáo dục công dân, Địa lý, tiếng Ả Rậptiếng Pháp/tiếng Anh/hay cả hai. Các cơ sở vật chất phục vụ giáo dục khác như Giáo dục thể chất, nghệ thuật, thư viện (không phải ở mọi trường), và chủ yếu tại các trường tư có thêm chuyên gia tư vấn.

[sửa] Chương trình giảng dạy tại các trường Liban

Trường công, trường tư và bán công phải theo một chương trình giảng dạy đồng nhất do Bộ giáo dục đề ra đối với trẻ em từ 6 đến 11 tuổi

  • Trung học cơ sở – Bốn năm, học sinh được cấp Bằng trung học khi hoàn thành
  • Trung học – Ba năm, học sinh qua các kỳ thi chính thức được cấp Bằng tú tài toán, khoa học thực nghiệm và triết học

Giáo dục là miễn phí đối với mọi học sinh và là bắt buộc theo luật. Tuy nhiên, "bắt buộc" không hoàn toàn được tôn trọng. Đã có các kế hoạch nhằm thay đổi vấn đề này trong tương lai gần.

[sửa] Các trường cao đẳng và đại học

Sau trung học, sinh viên Liban có thể lựa chọn học tập tại một trường đại học, một trường cao đẳng, một học viện hay một "trường kỹ thuật cao cấp". Số năm học thay đổi tuỳ theo từng trường.

Liban có 15 trường đại học trong số đó Đại học Hoa Kỳ tại Beirut (AUB) và Đại học Hoa Kỳ Liban được công nhận quốc tế. AUB là trường đại học sử dụng tiếng Anh đầu tiên mở cửa tại Liban, trong khi trường đại học đầu tiên là Đại học Saint-Joseph của Pháp. 15 trường đại học, cả công và tư đều có sử dụng tiếng Ả Rập, tiếng Pháp hay tiếng Anh bởi vì đây là những ngôn ngữ được dùng nhiều nhất ở Liban. Có bốn học viện Pháp, 7 học viện Anh và 1 học viện Armenia. Nói chung, các trường đều dạy tiếng Ả Rập và bởi vì đây là ngôn ngữ được dùng nhiều nhất, vì thế nó cũng là ngôn ngữ căn bản trong chương trình học.

Tại các trường đại học dùng tiếng Anh, sinh viên nào đã tốt nghiệp từ một trường sử dụng chương trình dạy kiểu Mỹ vào học sẽ được cấp bằng tương đương với bằng của Bộ giáo dục cao học Liban. Bằng này chứng nhận cho họ được theo học các mức cao hơn. Các sinh viên đó cần có trình độ SAT I, SAT II và TOEFL để không phải qua các kỳ thi chính thức.

[sửa] Giao thông vận tải

Bài chi tiết: Vận tải tại Liban

[sửa] Văn hoá

Hình:Jupiter Baalbek.jpg
Tàn tích Baalbek
Bài chi tiết: Văn hóa Liban

Liban từng là ngã ba đường giữa các nền văn minh trong nhiều thiên niên kỷ, vì vậy không ngạc nhiên khi một đất nước nhỏ lại sở hữu một nền văn hóa giàu có và mạnh mẽ đến như vậy. Số lượng lớn các nhóm sắc tộc, tôn giáo ở Liban khiến nước này có một nền văn hoá ẩm thực, âm nhạc và các truyền thống văn học cũng như lễ hội rất lớn và đa dạng. Các trường phái nghệ thuật ở Beirut phát triển đầy sinh khí với nhiều cuộc trưng bày nghệ thuật sắp đặt, triển lãm, các buổi trình diễn thời trang, và các buổi hòa nhạc được tổ chức quanh năm tại các gallery, các bảo tàng, nhà hát và các tụ điểm công cộng. Liban có một xã hội hiện đại, giáo dục cao và có lẽ có thể so sánh được với các nước Châu Âu ở vùng Địa Trung Hải. Đa số người Liban có thể sử dụng hai thứ tiếng, tiếng Ả rập và tiếng Pháp, điều này giải thích việc Liban là một thành viên của Cộng đồng Pháp ngữ (La Francophonie); tuy nhiên, tiếng Anh cũng đã dần trở nên phổ biến, đặc biệt trong các sinh viên đại học. Đất nước này không chỉ là nơi giao hòa giữa Thiên chúa giáo và Hồi giáo mà Liban còn là cánh cổng nối thế giới Ả Rập với Châu Âu cũng như là cây cầu cho Châu Âu tới Ả Rập.

Liban cũng có nhiều trường đại học lớn, gồm Đại học Liban, Đại học Hoa Kỳ tại Beirut, Đại học Saint-Joseph và Đại học Hoa Kỳ Liban.

Nhiều lễ hội quốc tế được tổ chức tại Liban, với những nghệ sĩ và khán giả từ Liban cũng như từ nước ngoài. Những lễ hội mùa hè nổi tiếng nhất tại Baalbek, Beiteddine và Byblos.

[sửa] Xem thêm

Chủ đề Liban
  • Viễn thông ở Liban
  • Danh sách các chủ đề liên quan tới Liban: nhằm liệt kê mọi bài viết liên quan tới Liban trên Wikipedia.
  • Danh sách người Liban: danh sách những người Liban nổi tiếng, gồm cả những người nước ngoài có tổ tiên là người Liban.
  • Quân đội Liban
  • Xung đột Nam Liban
  • Vận tải ở Liban

[sửa] Liên kết ngoài

Tìm thêm về Lebanon tại một trong những đồng dự án của Wikipedia:
Wiktionary – từ điển
Wikibooks – sách giáo khoa
Wikiquote – danh ngôn
Wikisource – văn kiện
Commons – hình ảnh

Văn hóa và Giáo dục

Xem thêm: Danh sách các trường Đại học Liban


Du lịch

Thông tin chung

Nhân dân Liban

Ngôn ngữ khác


aa - ab - af - ak - als - am - an - ang - ar - arc - as - ast - av - ay - az - ba - bar - bat_smg - bcl - be - be_x_old - bg - bh - bi - bm - bn - bo - bpy - br - bs - bug - bxr - ca - cbk_zam - cdo - ce - ceb - ch - cho - chr - chy - co - cr - crh - cs - csb - cu - cv - cy - da - de - diq - dsb - dv - dz - ee - el - eml - en - eo - es - et - eu - ext - fa - ff - fi - fiu_vro - fj - fo - fr - frp - fur - fy - ga - gan - gd - gl - glk - gn - got - gu - gv - ha - hak - haw - he - hi - hif - ho - hr - hsb - ht - hu - hy - hz - ia - id - ie - ig - ii - ik - ilo - io - is - it - iu - ja - jbo - jv - ka - kaa - kab - kg - ki - kj - kk - kl - km - kn - ko - kr - ks - ksh - ku - kv - kw - ky - la - lad - lb - lbe - lg - li - lij - lmo - ln - lo - lt - lv - map_bms - mdf - mg - mh - mi - mk - ml - mn - mo - mr - mt - mus - my - myv - mzn - na - nah - nap - nds - nds_nl - ne - new - ng - nl - nn - no - nov - nrm - nv - ny - oc - om - or - os - pa - pag - pam - pap - pdc - pi - pih - pl - pms - ps - pt - qu - quality - rm - rmy - rn - ro - roa_rup - roa_tara - ru - rw - sa - sah - sc - scn - sco - sd - se - sg - sh - si - simple - sk - sl - sm - sn - so - sr - srn - ss - st - stq - su - sv - sw - szl - ta - te - tet - tg - th - ti - tk - tl - tlh - tn - to - tpi - tr - ts - tt - tum - tw - ty - udm - ug - uk - ur - uz - ve - vec - vi - vls - vo - wa - war - wo - wuu - xal - xh - yi - yo - za - zea - zh - zh_classical - zh_min_nan - zh_yue - zu -