Mariah Carey
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Mariah Carey | |
---|---|
Mariah Carey biểu diễn tại lễ trao giải Grammy năm 2006.
|
|
Thông tin nghệ sĩ | |
Tên khai sinh | Mariah Carey |
Ngày sinh | 27 tháng 3, 1970 (38 tuổi) Huntington, Long Island, New York |
Thể loại | Pop, R&B, dance-pop |
Nghề nghiệp | Ca sĩ, nhạc sĩ, nhà sản xuất ghi âm, đạo diễn video nhạc, diễn viên |
Năm hoạt động | 1990–nay |
Hãng đĩa | Columbia, Virgin, MonarC/Island |
Trang web | www.mariahcarey.com |
Mariah Carey (sinh ngày 27 tháng 3 năm 1970) là một ca sĩ, nhạc sĩ thể loại nhạc Pop và R&B, nhà sản xuất đĩa và diễn viên người Mỹ. Cô bắt đầu sự nghiệp âm nhạc vào năm 1990 dưới sự dìu dắt của Tommy Mottola là giám đốc hãng Columbia Records. Sau khi kết hôn với ông Mottola vào năm 1993, cô có một loạt các ấn phẩm âm nhạc thành công và nó đã củng cố vị trí của cô như là một trong những nghệ sĩ thành công nhất của hãng Columbia. Trong thập niên 1990, cô là nghệ sĩ thành công nhất ở Mỹ theo tạp chí Billboard và là nữ nghệ sĩ bán được nhiều đĩa hát nhất trên toàn cầu (theo Giải thưởng âm nhạc Thế giới).
Sau khi chia tay với Mottola vào năm 1996, cô hoàn toàn làm chủ khả năng sáng tạo hình ảnh và âm nhạc của bản thân, cũng như mang nặng âm thanh hip-hop trong những đĩa nhạc của mình. Sự nổi tiếng của cô bị giảm sút khi cô rời khỏi hãng Colombia vào năm 2001. Năm sau đó cô bị hãng Virgin Records cắt bỏ hợp đồng thu âm do sự suy sụp nặng nề về thể chất lẫn tinh thần bị công bố rộng rãi và do sự thờ ơ của công chúng với dự án phim và nhạc phim Glitter. Sau đó, Carey ký hợp đồng với hãng Island/Def Jam và sau một giai đoạn chỉ đạt những thành công ít ỏi, cô đã trở lại vị trí hàng đầu trên sân khấu âm nhạc vào năm 2005 với album The Emancipation of Mimi.
Mariah Carey được giải thưởng âm nhạc Thế giới ghi nhận là nữ ca sĩ nhạc Pop thành công nhất[1], đồng thời hiện cô cũng đang giữ lỷ lục là nữ ca sĩ có nhiều đĩa đơn quán quân nhất tại Mỹ (18 ca khúc). Bên cạnh những thành công về mặt thương mại, cô cũng đã giành được 5 giải Grammy, giải thưởng âm nhạc danh giá nhất của nước Mỹ và được biết đến với giọng hát khỏe, chắc cùng cách sử dụng những quãng âm gió một cách điêu luyện. Tuy nhiên nhiều nhà phê bình âm nhạc cho rằng sự nỗ lực của Mariah Carey để chứng tỏ giọng hát trời cho của mình nhiều khi đã làm đánh mất đi những cảm xúc mà lẽ ra cô nên truyền tải tốt tới người nghe.[2][3]
Năm 2006, tạp chí Forbes đánh giá tài sản của Mariah Carey là khoảng 225 triệu USD và xếp cô ở hạng 6 trong top 20 người phụ nữ giàu nhất trong làng giải trí thế giới, sau Oprah Winfrey, J.K. Rowling, Martha Stewart, Madonna và Celine Dion[4].
Mục lục |
[sửa] Sự nghiệp ca nhạc
[sửa] Cuộc sống ban đầu và sự phát hiện
Mariah Carey sinh tại Long Island, tiểu bang New York. Cô là con gái út của gia đình. Mẹ là Patricia Hickey, một ca sĩ opera và giáo viên thanh nhạc người Mỹ gốc Ireland theo đạo Công giáo La mã. Bố là Alfred Roy Carey, một kỹ sư hàng không người Venezuela gốc Phi. Vì là một gia đình đa chủng tộc, gia đình cô thường chịu đựng sự gièm pha, thù địch và đôi lúc là bạo lực, khiến cho gia đình phải thường xuyên chuyển nơi cư trú quanh vùng New York và Rhode Island. Sự căng thẳng đè trên gia đình khiến bố mẹ cô ly hôn khi cô 3 tuổi[5]. Carey đã rất ít liên lạc với bố, và mẹ cô thường làm nhiều nghề khác nhau để nuôi gia đình.
Trải qua nhiều thời gian ở nhà một mình, Carey đến với âm nhạc như một lối thoát. Cô bắt đầu đi hát vào lúc 3 tuổi, biểu diễn lần đầu tiên trước công chúng khi còn học cấp hai, và bắt đầu sáng tác vào đầu năm học cấp ba. Carey đã tốt nghiệp trung học tại trường Harborfields (ở quận Greenlawn, New York), mặc dù cô thường hay nghỉ học để làm ca sĩ demo cho các phòng thu âm địa phương. Tiếng tăm tầm tầm trong vùng Long Island đã cho cô cơ hội làm việc với những nhạc công như Gavin Christopher và Ben Margulies, cũng là những người đồng sáng tác với cô trong cuộn băng demo. Sau khi chuyển đến Thành phố New York, Carey đã làm nhiều nghề tay trái để trả tiền thuê nhà và hoàn tất 500 giờ học ở trường thẫm mỹ. Cô đã làm thợ uốn tóc cho một thẩm mỹ viện hạng sang và bỏ nghề sau khi người chủ yêu cầu cô đổi tên thành Echo. Cô đã làm hầu bàn và kiểm tra áo khoác, sau đó là làm ca sĩ hát đệm cho Brenda K. Starr[6].
Năm 1988, Carey gặp giám đốc hãng đĩa Columbia là Tommy Mottola tại một bữa tiệc. Tại đó, Starr đã trao cho anh ta cuộn băng demo của Carey. Mottola nghe cuộn băng lúc rời khỏi buổi tiệc và rất ấn tượng. Anh ta trở lại bữa tiệc để tìm Carey nhưng cô đã rời khỏi buổi tiệc. Tuy nhiên, Mottola đã hẹn gặp và ký hợp đồng với cô. Câu chuyện như Cinderella này đã trở thành một phần quan trọng để quảng bá tên tuổi cho Carey trên con đường tiến thân[7].
[sửa] 1990-1992: Thành công thương mại đầu tiên
Mariah Carey đồng sáng tác tất cả những tác phẩm gốc trong album đầu tiên Mariah Carey vào năm 1990, và tiếp tục đồng sáng tác gần như tất cả các tác phẩm trong toàn bộ sự nghiệp, nhưng cô thể hiện sự không thỏa mãn với phần cộng tác của những nhà sản xuất như Ric Wake và Rhett Lawrence[8]. Với sự quảng cáo rầm rộ, album đã vọt lên vị trí quán quân trong bảng xếp hạng đưa Carey trở thành một ngôi sao mới ở Mỹ, nhưng sự thành công ngoài khu vực Bắc Mỹ vẫn còn giới hạn. Giới phê bình đánh giá cao đĩa nhạc này, và Carey đã thắng các giải thưởng Grammy như: "Nghệ sĩ mới xuất sắc nhất" và "Trình diễn giọng Pop nữ xuất sắc nhất" dành cho đĩa đơn đầu tiên "Vision of Love".
Album thứ hai, Emotions được coi như bày tỏ sự kính trọng với nhạc soul Motown và thể hiện sự hợp tác của Mariah Carey với Walter Afanasieff và nhóm nhạc dance C&C Music Factory. Nó được phát hành ngay sau album đầu tiên vào mùa thu năm 1991, nhưng đã không thành công về mặt thương mại và phê bình như đĩa đầu. Tạp chí Rolling Stone nhận xét đĩa này rằng: "vẫn như cũ, ít chất liệu thú vị, những bản tình ca thiên về mặt tinh thần lại được thể hiện thiếu sinh khí nhưng lại khoe nhiều về mặt kỹ thuật"[9]. Ca khúc chủ đề "Emotions" đưa Carey trở thành nghệ sĩ duy nhất có 5 đĩa đơn đầu tiên trong sự nghiệp đạt quán quân trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 ở Mỹ, tuy vậy, những đĩa đơn tiếp theo từ đĩa nhạc này lại thất bại trong việc phá kỷ lục trên. Carey được vận động tự sản xuất những bài hát của mình, và bắt đầu với "Emotions", cô đã đồng sản xuất hầu hết tất cả các bài hát. Cô đã nói: "Tôi đã không muốn Emotions trở thành ảo mộng của ai khác ngoại trừ tôi. Đĩa nhạc này chứa đựng bản thân tôi nhiều hơn"[10]. Cô cũng đã bắt đầu sáng tác và sản xuất cho các nghệ sĩ khác như Penny Ford và Daryl Hall trong năm sau đó.
Mặc dù cô từng thường hay trình diễn sống, nhưng chứng sợ sân khấu đã khiến Carey không thể xuất hiện trong bất kì những chuyến biểu diễn lớn trước công chúng nào. Buổi hòa nhạc lớn đầu tiên của cô là chương trình MTV Unplugged vào năm 1992, và cô đã từng nói rằng cô cảm thấy những màn trình diễn sống chứng tỏ các khả năng giọng hát của cô không được như ý, vì như một số người đã từng đề cập rằng giọng hát của cô bị chi phối bởi kỹ thuật phòng thu[11]. Bên cạnh những phiên bản acoustic của những bài hát ban đầu của cô, Carey còn lần đầu tiên trình bày lại ca khúc "I'll Be There" của ban nhạc Jackson 5 với ca sĩ hát đệm Trey Lorenz. Ca khúc được phát hành dưới dạng đĩa đơn, và đã đạt quán quân ở Mỹ, giúp cho Trey Lorenz ký được hợp đồng ghi âm và có đĩa nhạc đầu tay do Carey sản xuất. Vì chương trình Unplugged được đánh giá cao, nên buổi hòa nhạc được phát hành dưới dạng đĩa EP MTV Unplugged. Tuần báo Entertainment Weekly đã gọi đĩa này là "một đĩa nhạc tốt nhất và chân thật nhất mà cô từng thực hiện... Liệu có phải buổi trình diễn sống này đã giúp cô ấy bước những đi đầu tiên đến sự trưởng thành?"[12].
[sửa] 1993-1996: Nổi tiếng toàn thế giới
- "One Sweet Day"(1994) (thông tin)
- Bài hát này rất thành công khi nó đứng ở vị trí #1 trong suốt 16 tuần liên tiếp, một kỷ lục mà hiện nay chưa có đĩa đơn nào phá vỡ được.
- Trục trặc khi nghe? Xem hướng dẫn.
Mariah Carey và Tommy Mottola đã có mối quan hệ tình cảm trong thời gian thực hiện đĩa nhạc đầu tiên, và họ đã kết hôn vào ngày 5 tháng 6 năm 1993. Đám cưới xa hoa sang trọng của họ được tổ chức tại New York với sự góp mặt của nhiều nhân vật nổi tiếng như Barbra Streisand, Bruce Springsteen. Đám cưới huy động đến 200 nhân viên bảo vệ, 300 khách mời với tiệc cưới linh đình.
Kenneth "Babyface" Edmonds đã hội ý về đĩa Music Box, mà được phát hành một năm sau và trở thành đĩa thành công nhất của Carey trên toàn cầu. Bản hát lại bài "Without You" của Badfinger đã trở thành ca khúc quán quân đầu tiên của cô tại Anh, cũng như những ca khúc quán quân ở Mỹ như: "Dreamlover" và "Hero". Tạp chí Billboard đã nhận xét đĩa nhạc này như sau: "cảm xúc thấu tận trong tim... dễ dàng trở thành tác phẩm hay nhất của Carey, giọng hát của cô phối hợp tự nhiên với những bài hát"[13]. Trong giây phút xúc động tại một buổi phóng vấn về thành công của mình, Carey nói: "Có lẽ đến giờ phút này vẫn có những người không thích tôi và âm nhạc của tôi, nhưng tôi nghĩ rằng mình đã đạt được những thành tựu nhất định. Tôi không thể nói gì hơn trong giờ phút này. Tất cả những gì tôi có thể làm là biến âm nhạc thành những điều mà tôi đặt tất cả niềm tin và hy vọng vào". Bên cạnh những phản hồi tích cực về album thì một số nhận xét không được tốt, ví dụ như tạp chí TIME lại tỏ vẻ tiếc cho cố gắng của Carey trong việc tạo ra một ấn phẩm dịu dàng và chín chắn: "Music Box có vẻ như đại khái và hầu như không có sự nồng nàn... Đáng lẽ Carey có thể là một nghệ sĩ pop-soul tuyệt vời; nhưng cô lại một lần nữa đặt mình vào vị trí tầm thường như Antonio Salieri"[14]. Một chuyến lưu diễn sau đó trên toàn nước Mỹ đã bị công kích bởi hầu hết giới phê bình. Carey đã nói trong một cuộc phỏng vấn với tạp chí Vogue: "Ngay khi bạn có một thành công lớn, lại có nhiều người không thích như vậy. Tôi chẳng thể làm gì về điều đó. Tất cả những gì tôi có thể làm là tạo ra âm nhạc mà tôi tin tưởng"[15].
Sau khi thành công với bản song ca "Endless Love" cùng Luther Vandross (trước đây do Lionel Richie và Diana Ross thể hiện) vào cuối năm 1994, Carey phát hành đĩa nhạc mừng lễ Giáng sinh Merry Christmas. Đĩa này bao gồm những ca khúc hát lại và những ca khúc mới như là "All I Want for Christmas Is You", bài này đã trở thành ca khúc quán quân đầu tiên của Carey tại Nhật Bản và trở thành một trong những ca khúc lưu niên nổi tiếng nhất trong những năm sau này trên làn sóng phát thanh Hoa Kỳ. Có nhiều thái độ khác nhau của giới phê bình về Merry Christmas, website All Music Guide tỏ vẻ thờ ơ: "nếu không là một đĩa nhạc ngọt ngào thì cũng là sự kỳ vọng muốn đạt đến phong cách opera trong "O Holy Night" và một bản nhạc dance kinh khủng với Joy To the World"[16]. Công chúng thì chấp nhận đĩa này nồng nhiệt hơn, trở thành đĩa nhạc Giáng sinh thành công nhất của mọi thời đại[17].
Năm 1995, Carey phát hành đĩa nhạc Daydream, kết hợp những cảm giác pop của Music Box với những ảnh hưởng của R&B và hip-hop. Carey kể lại rằng hãng Columbia đã phản ứng tiêu cực về những ý định của cô cho đĩa này: "Mọi người như thể nói với tôi rằng: 'Cái gì cơ, cô có mất trí không đấy?'. Họ rất căng thẳng về công thức đột phá này"[18]. Đĩa nhạc đã trở thành đĩa bán chạy nhất của cô ở Mỹ, và các đĩa đơn của nó cũng đạt thành công tương tự: "Fantasy" trở thành đĩa đơn thứ hai bay thẳng lên vị trí quán quân ở Mỹ và dẫn đầu bảng xếp hạng ở Canada trong 12 tuần lễ, "One Sweet Day" (song ca với Boyz II Men) chinh phục vị trí quán quân ở Mỹ trong 16 tuần lễ liên tục (hiện nay vẫn là kỷ lục chưa bị phá), và "Always Be My Baby" (đồng sản xuất bởi Jermaine Dupri) đã dẫn đầu bảng xếp hạng tổng kết cả năm 1996 "Billboard Hot 100 Airplay". Daydream đã tạo ra nhiều lời nhận xét tích cực cho sự nghiệp của Mariah Carey[19] và được coi là một trong những đĩa nhạc hay nhất năm 1995 bởi nhiều tạp chí như New York Times đã viết rằng: "Những ca khúc hay nhất trong đĩa này đã đưa việc tạo những bản pop ngọt ngào lên một đỉnh cao mới của sự tinh tế... Khả năng sáng tác của Carey đã tiến một bước nhảy vọt, trở nên có tính giải trí hơn, gợi cảm hơn và ít dựa dẫm vào những lời sáo rỗng"[20]. Doanh số của đĩa tăng lên nhiều nhờ chuyến lưu diễn toàn thế giới Daydream World Tour thu được lợi nhuận cao, và đã nhận được 6 đề cử Grammy tuy nhiên Carey không giành được giải nào.
[sửa] 1997-2000: Độc lập và hình ảnh mới
Mariah Carey và Mottola chia tay vào năm 1996. Mặc dù hình ảnh trước công chúng về cuộc hôn nhân là một đôi vợ chồng hạnh phúc, nhưng cô đã nói rằng thực tế cô cảm thấy bị mắc bẫy bởi mối quan hệ với Mottola, người mà cô thường miêu tả như là người điều khiển cô[21]. Họ chính thức thông báo ly thân vào năm 1997, và ly hôn vào năm sau đó. Carey đã tuyển người quản lý và luật sư mới ngay sau khi ly thân, cũng như tuyển một người đại diện độc lập. Mariah Carey đã phát biểu trong một cuộc họp báo sau khi thoát khỏi sự bao bọc, che chở của Mottola: "Tôi đến một câu lạc bộ. Đã vài năm rồi người ta không thấy tôi. Họ nhìn tôi như thể: 'Chị nên nằm lỳ ở nhà chăng?'" Sau khoảng thời gian ly hôn, Carey trở thành một nhạc sĩ và nhà sản xuất cho những nghệ sĩ khác trong suốt giai đoạn này, như tham gia vào những đĩa nhạc đầu tay của Allure, 7 Mile và Blaque thông qua hãng đĩa của mình Crave Records (hãng này đã không tồn tại được lâu).
Đĩa Butterfly của Carey vào năm 1997 được mở màn bằng đĩa đơn quán quân "Honey", lời và video ca nhạc đã thể hiện một hình ảnh gợi cảm công khai hơn trước đây. Cô đề cập rằng Butterfly đã đánh dấu điểm mà cô đã đạt đến sự điều khiển sáng tạo hoàn toàn về âm nhạc của mình, và cô đã tiếp tục đi theo hướng R&B/hip-hop với những ca khúc đồng sáng tác và sản xuất bởi các rapper như Sean "Puffy" Combs và Missy Elliott. Cô nói thêm: "Tôi không nghĩ điều này quá xa với những gì mà tôi đã làm trước đây... Không phải như là về vấn đề tinh thần và tôi nghĩ là tôi sắp trở thành rapper. Bản thân tôi cho rằng đây là đĩa nhạc mà tôi đã muốn làm bất cứ điều gì cũng được"[22]. Những lời bình luận hầu hết là tích cực: website LAUNCHcast coi Butterfly "như con bướm đã thoát khỏi vỏ bọc, có thể làm bối rối những người hâm mộ bảo thủ, nhưng là một sự thay đổi đáng hoan nghênh"[23]. Báo Los Angeles Times viết: "Butterfly rất dễ là đĩa nhạc riêng tư nhất và chuyên nghiệp nhất mà cô từng thực hiện..."[24]. Đĩa nhạc cũng đạt được thành công thương mại, và ca khúc "My All" (đĩa đơn quán quân thứ 13 của cô trên bảng xếp hạng Hot 100) đã ghi kỷ lục như là nữ nghệ sĩ có nhiều ca khúc quán quân nhất nước Mỹ. Hướng đến thiên niên kỷ mới, Carey đã phát triển dự án phim Glitters, và cô cũng sáng tác nhạc cho phim Men in Black (1997) và How the Grinch Stole Christmas (2000).
- "My All"(1995) (thông tin)
- Bản ballad này là đĩa đơn #1 thứ 13 của Mariah Carey tại Mỹ, một kỷ lục trong giới nữ ca sĩ.
- Trục trặc khi nghe? Xem hướng dẫn.
Trong suốt quá trình sản xuất Butterfly, Carey đã nảy sinh quan hệ với cầu thủ bóng chày Derek Jeter của đội New York Yankees. Mối quan hệ của họ kết thúc vào năm 1998, cả hai bên nêu rằng sự quấy rầy của giới truyền thông là lý do tan vỡ[25]. Cùng năm đó, đĩa nhạc #1's được phát hành, hợp tuyển những ca khúc quán quân của cô cho đến thời điểm đó. Carey đã ghi âm một số ca khúc mới trong đĩa này để tặng người hâm mộ[26] và cũng có cả ca khúc "When You Believe", bản song ca đạt giải Oscar với diva gạo cội Whitney Houston cho phim hoạt hình The Prince of Egypt. #1's đã bán trên mức kỳ vọng, nhưng một lời nhận xét trên tạp chí NME xem Carey như là "một người chuyên đi thầu chuyện nhảm nhí ngọt xớt như ca khúc "Hero", mà thông điệp nghe có vẻ lành mạnh: nếu bạn bỏ qua suy nghĩ sáng suốt, hãy đá lông nheo và chịu khó ước muốn thì những anh chàng sẽ bám đuôi"[27]. Cũng năm đó, cô xuất hiện trong buổi hòa nhạc từ thiện VH1 Divas được tổ chức lần đầu tiên, dẫu cho những hành vi bị coi là thái quá đã làm nhiều người xem cô như là một diva[28]. Sang năm sau, cô bắt đầu mối quan hệ với ca sĩ Luis Miguel.
Rainbow, album phòng thu thứ 6 của Carey, được phát hành vào năm 1999. Đĩa này vẫn bao gồm những ca khúc R&B/hip-hop, nhiều ca khúc đồng sáng tác bởi Jimmy Jam và Terry Lewis. Cả hai ca khúc "Heartbreaker" (hát với Jay-Z) và "Thank God I Found You" (hát với Joe và ban nhạc 98 Degrees) đã đạt quán quân tại Mỹ, và thành công của "Heartbreaker" đã chứng nhận Carey là nghệ sĩ duy nhất cứ mỗi năm lại có một đĩa đơn quán quân trong suốt thập niên 1990. Giới truyền thông đón tiếp sự kiện này rất hăng hái, tờ báo Sunday Herald xem đĩa nhạc này như là "sự chập chững ấn tượng giữa các bản tình ca đậm chất soul và sự cộng tác với những nhân vật nặng ký trong thể loại R&B/hip-hop như Snoop Dogg, Usher ... Một tuyển tập tao nhã của pop-soul"[29]. Tạp chí Vibe cũng bộc lộ những ý kiến tương tự "Cô ấy đã phá bỏ mọi điểm dừng... Rainbow thậm chí sẽ nhận được nhiều sự tôn trọng hơn"[30], nhưng Rainbow lại là đĩa bán thấp nhất của Carey cho đến thời điểm đó, và đã có lời phê bình rằng các ca khúc nghe tựa tựa như nhau. Khi ấn phẩm "Crybaby"/"Can't Take That Away (Mariah's Theme)" trở thành đĩa đơn đầu tiên lọt khỏi Top 20, Carey đã cáo buộc Sony vì đã quảng bá nghèo nàn, và cô đã viết lên website của mình rằng: "Tình trạng quản lý trong sự nghiệp chuyên môn của tôi không có sự tích cực ... Tôi đang nhận thấy có nhiều phản hồi tiêu cực từ những con người trong công ty"[31].
[sửa] 2001-2004: Những khó khăn trong sự nghiệp và đời tư
Sau khi nhận giải thưởng "Nghệ sĩ của Thập niên" do tạp chí Billboard trao tặng, và giải nữ nghệ sĩ bán chạy nhất thiên niên kỷ tại giải thưởng Âm nhạc thế giới, Carey đã rời khỏi Columbia và ký hợp đồng trị giá 80 triệu USD với hãng Virgin của tập đoàn EMI. Cô thường đề cập rằng Columbia từng coi cô như một thứ hàng hóa, sự chia tay với Mottola đã làm trầm trọng thêm mối quan hệ của cô với những người lãnh đạo trong hãng. Chỉ vài tháng sau, vào tháng 7 năm 2001, thông tin được công bố rộng rãi rằng Carey đã chịu đựng đột quỵ về cơ thể lẫn tinh thần. Cô đã gửi thông điệp trên website của mình giải thích lí do là do làm việc quá sức[32], và mối quan hệ với Luis Miguel đã kết thúc. Vào năm sau, trong một buổi phỏng vấn, cô đã nói rằng: "Những người xung quanh không thật sự hiểu tôi, và tôi chẳng có người nào để giúp đỡ chuyện cá nhân. Tôi đã phải thực hiện những buổi phỏng vấn dài cả ngày, chỉ có 2 giờ mỗi đêm để ngủ"[33]. Trong một lần xuất hiện trên chương trình Total Request Live của MTV, Carey đã giơ ngón giữa vào khán giả, và hành động này được báo chí miêu tả như là cực kỳ thô lỗ[34]. Cuối tháng đó, cô đã tiến hành nhập viện tại một bệnh viện tâm thần, và người đại diện của cô thông báo rằng cô cần nghỉ ngơi để tránh xuất hiện trước công chúng[35].
Giới phê bình đã chỉ trích gay gắt bộ phim Glitter, được coi như là một phim bán tự truyện đã nhiều lần bị trì hoãn của Carey, và bộ phim cũng thất bại về doanh thu. Đĩa nhạc Glitter, mang ảnh hưởng của âm nhạc thập niên 1980, bị coi là thất bại nặng nề nhất của cô trên các bảng xếp hạng Mỹ. Ca khúc "Loverboy" đạt vị trí á quân trên bảng xếp hạng Hot 100 nhờ giảm giá[35] nhưng các đĩa đơn sau đó đều thất bại trong việc chinh phục các bảng xếp hạng. Tạp chí Blender đã có nhận định chua xót: "Sau nhiều năm thăng hoa trong sự nghiệp, Carey ra đi với hai bàn tay trắng".
Hãng Columbia đã phát hành đĩa Greatest Hits không lâu sau thất bại của Glitter, và đầu năm 2002, hãng Virgin đã chấm dứt hợp đồng với Carey với số tiền đền bù là 28 triệu USD, càng tạo ra đề tài để giới truyền thông công kích cô. Carey nói rằng thời gian cô ở tại Virgin "hoàn toàn căng thẳng... Tôi đã quyết định ngon ơ chỉ vì tiền, và tôi chưa bao giờ quyết định điều gì dựa trên tiền bạc. Tôi đã học được một bài học lớn từ điều đó"[36]. Cuối năm đó, cô đã ký một hợp đồng trị giá 20 triệu USD với hãng Island (của công ty Def Jam) và mở hãng đĩa riêng mang tên MonarC. Việc bố cô qua đời vào mùa hè năm đó đã tạo thêm gánh nặng tinh thần cho Carey.
Sau vai phụ được đánh giá khả quan trong phim WiseGirls và ký hợp đồng với hãng Island, Carey sang Ý tập hợp âm nhạc và sáng tác. Kết quả của những ngày tháng vất vả là Charmbracelet mà cô xem như là "một cuộc sống mới"[33]. Trong album có một ca khúc viết về người cha bị ghẻ lạnh của cô, về sự hòa giải trước khi ông qua đời vì căn bệnh ung thư hồi tháng 4. Doanh thu của Charmbracelet chỉ tạm ổn, và chất giọng của Carey còn dưới mức đánh giá của giới phê bình. Tờ Boston Globe coi đĩa này như là "tệ nhất trong sự nghiệp, bộc lộ một giọng hát không còn mềm mại và điêu luyện"[37] và tạp chí Rolling Stone nhận xét rằng: "Carey cần những bài hát đậm nét có thể khai thác sức mạnh và âm vực nổi tiếng của cô. Charmbracelet như một dòng màu nước chảy vào vũng bùn màu nâu"[38]. Các đĩa đơn như "Through the Rain" đều thất bại trên bảng xếp hạng và với các đài nhạc pop, khi mà chúng ngày càng trở thành những khung cửa hẹp với những diva trưởng thành như Mariah Carey, Whitney Houston và Celine Dion[33]. "I Know What You Want", đĩa đơn của rapper Busta Rhymes vào năm 2003 mà Carey góp giọng được đánh giá thành công hơn và lọt vào Top 5 ở Mỹ. Hãng Columbia sau đó đã đưa nó vào tuyển tập remix The Remixes, đĩa có doanh số thấp nhất của Carey. Năm đó, cô được trao giải "World Music Chopard Diamond Award" vì đã bán được hơn 100 triệu đĩa trên toàn cầu[39]. Năm 2004, cô cũng góp giọng trong đĩa đơn "U Make Me Wanna" của rapper Jadakiss, và đã lọt vào Top 10 của bảng xếp hạng Billboard R&B/Hip-Hop.
[sửa] 2005-hiện nay: Sự trở lại của giọng ca
Đĩa nhạc thứ 14 (album phòng thu thứ 10) của Carey, The Emancipation of Mimi, ("Mimi" là một biệt danh của Mariah Carey) được phát hành vào năm 2005 và bao gồm những ca khúc hợp tác với những nhà sản xuất như The Neptunes và Kanye West. Carey nhận xét đĩa này "rất giống với một đĩa nhạc vui nhộn dành cho các buổi tiệc... như thể lúc bạn đang trang điểm và chuẩn bị đi tham dự cuộc vui... Tôi đã rất muốn thực hiện một đĩa nhạc phản ánh điều đó"[40]. The Emancipation of Mimi đã trở thành đĩa bán chạy nhất trong năm tại Mỹ và thắng 3 giải Grammy bao gồm giải "Album R&B đương đại xuất sắc nhất", "Bài hát R&B hay nhất" và "Trình diễn giọng R&B nữ xuất sắc nhất", tăng số giải Grammy trong sự nghiệp của cô lên 5 giải. Đĩa này mang lại những lời phê bình mà Carey tâm đắc nhất, chẳng hạn: tờ The Guardian coi Mimi như "một chiếc bánh quy cứng cỏi" và "hay, tập trung và thời thượng ... Những giai điệu đầu tiên của Mariah Carey trong những năm qua mà tôi không cần được trả tiền để nghe lại"[41]. Đĩa đơn "We Belong Together" chiếm lĩnh vị trí quán quân trên Billboard Hot 100 trong 14 tuần lễ (thời gian ở tại vị trí quán quân lâu nhất của cô với tư cách là ca sĩ đơn ca) và là ca khúc hit lớn nhất của năm 2005, và được phát sóng rất nhiều trên các đài radio trên toàn cầu. "Don't Forget About Us" trở thành ca khúc quán quân thứ 17 của Carey tại Mỹ, tiếp tục đưa cô lên vị trí dẫn đầu về nữ ca sĩ có nhiều đĩa quán quân nhất tại Mỹ.
- "We Belong Together"(2005) (thông tin)
- Đây là bài hát thành công nhất năm 2005 tại Mỹ khi nó đứng ở vị trí quán quân trong 14 tuần. Ca khúc R&B này cũng đưa Mariah Carey trở lại vị trí đầu bảng trong giới nữ ca sĩ Mỹ sau một thời gian cô "chìm nghỉm".
- Trục trặc khi nghe? Xem hướng dẫn.
Carey đã bắt đầu chuyến lưu diễn The Adventures of Mimi vào giữa năm 2006. Tour lưu diễn này được coi là thành công nhất trong sự nghiệp ca hát của cô, tuy một số buổi biểu diễn đã phải hủy bỏ. Trong năm 2007, cô đã nhận một "ngôi sao danh vọng" trên đại lộ Hollywood[42] và sẽ được đưa tên vào bảo tàng âm nhạc Long Island.
Mariah Carey đã bắt đầu thu âm album phòng thu thứ 11 từ giữa năm 2006. E=MC² phát hành ngày 15 tháng 4 năm 2008 và dễ dàng đạt hạng #1 tại Mỹ[43]. Đĩa đơn đầu tiên từ album với tên gọi "Touch My Body" phát hành trung tuần tháng 2 một lần nữa leo lên vị trí quán quân tại bảng xếp hạng Billboard Hot 100, chính thức đưa Mariah Carey vượt qua Elvis Presley để trở thành nghệ sĩ có số đĩa quán quân nhiều thứ hai trong kỷ nguyên Rock tại Mỹ. Hiện tại cô chỉ kém ban nhạc huyền thoại The Beatles với 20 lần quán quân[44][45][46].
[sửa] Sự nghiệp diễn xuất
Mariah Carey bắt đầu học diễn xuất chuyên nghiệp vào năm 1997, và vào năm sau, cô đã tham gia thử vai trong nhiều phim. Cô chính thức diễn xuất lần đầu tiên với vai ca sĩ opera trong phim hài lãng mạn The Bachelor (1999) với 2 diễn viên chính là Chris O'Donnell và Renée Zellweger. Kênh CNN đã nhận xét vai diễn diva bất tài của Carey trong phim này là "hoàn hảo"[47].
Carey đóng vai chính lần đầu tiên trong phim Glitter (2001), và trong phim này, cô đóng vai một ca sĩ bước vào ngành công nghiệp âm nhạc sau khi gặp một DJ (Max Beesley đóng) vào những năm 90 của thế kỷ trước. Trong khi nhà phê bình Roger Ebert nhận xét "Carey có thể diễn từ những vai lăng nhăng chỉ mang tính trách nhiệm đến sự chân thật đầy nhiệt huyết"[48], thì các lời phê bình còn lại đều chỉ trích gay gắt: Leslie Halliwell của website Film Guide gọi phim này là "phương tiện truyền bá nhạt nhẽo cho một ca sĩ nhạc pop không biết diễn xuất",[49] và tờ The Village Voice nhận xét thêm: "Bất cứ cảm xúc nào Carey thể hiện đều như thể lúc cô ta bị đánh mất chìa khóa xe"[50]. Glitter thất bại về doanh thu, và Carey đã được một giải Mâm Xôi Vàng . Sau này cô phát biểu rằng "phim bắt đầu theo một nội dung có giá trị nhưng kết thúc lại giống như phim trẻ em. Nó đã đánh mất rất nhiều điều hay ... Điều đó đã luôn khiến tôi suy nghĩ"[33].
Sau phim đó, Mariah Carey, Mira Sorvino và Melora Walters cùng đóng vai những nữ hầu bàn trong nhà hàng của những tên cướp trong phim độc lập WiseGirls (2002), đã được khởi chiếu tại liên hoan phim Sundance và được chiếu trên các đài truyền hình cáp ở Mỹ. Các lời phê bình khen ngợi sự nỗ lực của Carey: tờ Hollywood Reporter đã dự đoán, "Những lời phê bình gay gắt cho phim Glitter sẽ đi vào quên lãng một khi Carey làm nóng khán giả với vai diễn Raychel"[51], và nhà phê bình Roger Friedman, coi cô như là "một Thelma Ritter của thiên niên kỷ mới", và nhận xét, "Tuyến nhân vật của Carey sắc sảo và hài hước"[52]. Nhà sản xuất phim WiseGirls là Anthony Esposito đã mời Carey diễn trong phim The Sweet Science, phim về một nữ võ sĩ quyền anh vô danh được phát hiện bởi một người quản lý, nhưng phim vẫn chưa tiến hành thực hiện [53].
Carey cũng là một trong số nhiều nghệ sĩ âm nhạc xuất hiện trong các phim độc lập của Damon Dash là Death of a Dynasty (2003) and State Property 2 (2005), trong khi vai trò diễn viên truyền hình vẫn giới hạn trong tập phim Ally McBeal được chiếu vào tháng 1 năm 2002. Carey đã tham gia vai diễn trong phim độc lập Tennessee vào năm 2006, đóng vai nữ hầu bàn cùng với hai anh trai lên đường đi tìm người bố nhiều năm bị thất lạc.[54] Cô tiết lộ: "Tôi vào vai Krystal, nhân vật hoàn toàn khác tôi. Tôi nghĩ mọi người sẽ ngạc nhiên lắm đấy. Cô ấy mộc mạc và không hề quyến rũ [55].
[sửa] Phong cách nghệ thuật
[sửa] Giọng hát
Carey được biết đến như một ca sĩ hát thành công ở cả giọng nữ trầm và nữ cao. Điểm nổi bật trong âm vực của cô chính là khả năng hát ở những quãng âm gió. Minnie Riperton luôn được Carey nhắc đến như người có tầm ảnh hưởng lớn nhất đối với kỹ thuật hát của cô. Từ khi còn rất nhỏ, Carey đã luôn nỗ lực để có thể sánh ngang với khả năng hát những nốt cao tuyệt vời của Riperton và ngày càng mở rộng phạm vi âm vực của mình. Theo một số nguồn tin, Carey có âm vực trải dài trên 5 quãng tám, trong khi một số nguồn tin khác lại cho rằng âm vực của cô rộng tới 7 hoặc 8 quãng tám[56]. Năm 2003, Carey được MTV và tạp chí Blender bình chọn ở vị trí số 1 trong danh sách 22 giọng ca hay nhất mọi thời đại. Nói về kết quả của cuộc bình chọn này, Carey cho biết: "Điều thực sự có ý nghĩa là tôi đã được góp mặt cùng MTV. Tất nhiên, danh hiệu này là một lời khen ngợi tuyệt vời dành cho tôi, nhưng tôi thực sự không cảm thấy như vậy về bản thân mình".
Giọng hát của Mariah Carey được giới phê bình giành cho sự quan tâm khá kỹ lưỡng. Họ nhận thấy rằng cô truyền đạt thông điệp trong các ca khúc của mình không thực sự hoàn hảo. Năm 1992, tạp chí Rolling Stone nhận xét rằng: "Mariah Carey có một giọng hát trời cho nhưng tiếc thay, bây giờ cô hát to nhiều hơn là diễn cảm và gây xúc động cho người nghe... ở một vài nốt nhạc cô có khả năng "hát to" tới mức có thể át cả lời ca khúc"[3]. Tờ nhật báo New York Daily News viết rằng Carey "chỉ giỏi xướng âm và thể hiện kỹ thuật thanh nhạc khá xuất sắc chứ không giỏi thể hiện cảm xúc của mình. Liệu có một giọng hát hay và khỏe có giúp bạn trở thành một ca sĩ xuất sắc không? Khó đấy!"[2] Một số tạp chí khác đã giải thích quyết định của Carey sử dụng cái mà cô gọi là âm "hơi" trong một số nhạc phẩm của mình trong giai đoạn cuối thập niên 1990 và đầu thập niên 2000 là một dấu hiệu cho thấy giọng hát của cô đã bắt đầu xuống dốc, nhưng cô vẫn xác nhận rằng giọng hát của cô "xưa nay vẫn thế"[57]. Một bài báo trên tạp chí Vibe cho thấy rằng phong cách hát của Carey đã làm nổi bật những điểm yếu trong các khía cạnh khác của âm nhạc Carey: "Sự ấn tượng về giọng hát của cô – cũng như xu hướng hát quá to của cô – đã khiến cho sự dịu dàng chất giọng cô có vẻ ngày càng bị phai mờ, khác hẳn với những nhạc phẩm đầu tay"[7] .
[sửa] Chủ đề các ca khúc và thể loại nhạc
Tình yêu là đề tài chính trong các ca khúc lãng mạn của Mariah Carey mặc dù cô cũng có những bản sáng tác về chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, cái chết và sự duy linh. Cô cho biết hầu hết các tác phẩm của cô một phần là tự sự nhưng tạp chí TIME lại viết: "Giá mà âm nhạc của Mariah Carey có tính kịch như trong cuộc sống của cô thì hay biết mấy. Đằng này những bài hát của cô thường có vị ngọt và hơi nhân tạo còn cuộc sống riêng tư của cô thì lại đầy đam mê và những xung đột"[58].
Các nhạc phẩm của Mariah Carey có sử dụng nhiều âm thanh của các nhạc cụ điện tử như trống điện tử, keyboard và máy hòa âm. Thậm chí nhiều bài còn có cả tiếng đàn piano bởi vì cô đã được học piano ngay từ hồi mới 6 tuổi. Carey nói rằng tuy cô không biết đọc tờ nhạc bướm (bản nhạc in từng tờ rời chứ không đóng thành quyển) và thích được cộng tác với các nghệ sĩ piano khi sáng tác nhạc nhưng lại nhận thấy rằng việc sáng tác các giai điệu nhanh và ít "cổ truyền" hơn cùng các chuỗi hợp âm có vẻ dễ dàng hơn. Có thể nhận thấy một số bản nhạc cải biên của Carey chịu tác động từ các nhạc phẩm của một số nghệ sĩ piano nổi tiếng như Stevie Wonder, người mà cô đã từng gọi là "thiên tài của thế kỷ 20"[7] nhưng cô đã từng nói rằng: "Giọng hát chính là nhạc cụ của tôi, nó vẫn luôn thế"[59] .
[sửa] Ảnh hưởng
Carey đã nói rằng cảm hứng âm nhạc của cô đến từ những nghệ sĩ Soul/R&B như Billie Holiday, Sarah Vaughan, Gladys Knight, Aretha Franklin và Al Green, từ lúc còn bé. Âm nhạc của cô còn ảnh hưởng mạnh mẽ từ nhạc gospel, và các ca sĩ gospel yêu thích của cô bao gồm The Clark Sisters, Shirley Caesar và Edwin Hawkins.[60] Khi Carey bắt đầu đưa hip-hop vào phong cách của mình, có suy đoán cho rằng cô tận dụng sự phổ biến của thể loại này, nhưng cô đã kể với tờ báo Newsweek, "Người ta hoàn toàn không hiểu rằng tôi đã lớn lên với loại nhạc này".[61] Cô đã bày tỏ sự tôn kính đến những rapper như The Sugarhill Gang, Eric B. & Rakim, Wu-Tang Clan, Notorious B.I.G. và Mobb Deep, và với những người đã cộng tác cùng cô trong ca khúc "The Roof (Back in Time)".[7]
Đĩa đầu tay của Carey bị phê bình là phong cách quá giống với Whitney Houston, và trong suốt sự nghiệp của cô, phong cách âm nhạc và giọng hát của Carey cùng với cấp độ thành công đã được so sánh với Whitney Houston và Celine Dion. Carey và các ca sĩ đồng nghiệp của cô được nhà báo Garry Mulholland coi là "những công chúa gào thét ... những giọng ca điêu luyện phối hợp nhạc pop đại chúng với những bản tình ca ủy mị đa thể loại".[62] Trong cuốn sách She Bop II: The Definitive History of Women in Rock, Pop and Soul (2002), tác giả Lucy O'Brien đã so sánh tự trở lại của Barbra Streisand với Carey và Dion, và miêu tả họ với Whitney Houston là "được tô vẽ và phóng đại đến sự hoàn hảo".[63] Một Carey thuần túy âm nhạc và một Carey gợi cảm từ cuối những năm 90 của thế kỷ trước góp phần làm xa rời hình ảnh cũ, và rồi Carey nhận xét rằng âm nhạc thời kì đầu của cô là "đa thể loại và ủy mị quá đáng". Không như Whitney Houston và Celine Dion, Carey tự viết hầu hết các bài hát cho mình, và cuốn sách Guinness Rockopedia (1998) đã xếp hạng cô như là một trong những ca sĩ-nhạc sĩ quan trọng nhất.[64]
[sửa] Từ thiện và một số hoạt động khác
Mariah Carey cố gắng trở thành một nhà hảo tâm trong giới nghệ sĩ khi cô đã dành nhiều thời gian và tiền bạc cho một số quỹ từ thiện. Cô đã bắt đầu kết giao với quỹ Fresh Air từ đầu những năm 1990, và là người đồng sáng lập một cái trại tại Fishkill, New York dành cho trẻ em trong thành phố quan tâm tới nghệ thuật. Trại này được đặt tên là Trại Mariah để ghi nhận những ủng hộ và đóng góp của cô ca sĩ cho quỹ Fresh Air, và cô đã được nhận giải thưởng Congressional Horizon. Carey cũng được cả nước biết đến trong việc hợp tác với quỹ tài trợ Make a Wish để đem đến những ước mơ tới trẻ bị bệnh hiểm nghèo, dẫu nhỏ nhoi nhưng cũng góp phần giúp những đứa trẻ bất hạnh này có thêm nghị lực để chống lại bệnh tật. Cô còn xung phong tham gia vào liên đoàn điền kinh của Cảnh sát thành phố New York. Phần trăm doanh thu của MTV Unplugged đã được trích ra để đóng góp cho nhiều quỹ từ thiện khác. Tháng 1/2007, giới truyền thông thông báo rằng Mariah Carey sẽ đi dạy thanh nhạc tại một ngôi trường ở Nam Phi do Oprah Winfrey mở.
Một trong những buổi hòa nhạc gây quỹ đáng chú ý của Mariah Carey là sự xuất hiện trong Divas Live, cô biểu diễn cùng với một số diva nổi tiếng khác để ủng hộ quỹ tài trợ Âm nhạc. Cô cũng xuất hiện trong America: A Tribute to Heroes sau những hậu quả to lớn của Sự kiện 11 tháng 9, đến tháng 12 năm đó cô bay tới Kosovo để biểu diễn trước lực lượng gìn giữ hòa bình tại khu vực vốn nhiều giao tranh này. Cô còn nhận vai trò người dẫn chương trình trong chương trình truyền hình đặc biệt của đài CBS kể về cuộc sống thực của những đứa trẻ mồ côi và gia đình nhận nuôi chúng. Năm 2005 cô biểu diễn trong chương trình Live 8 tại London và trong chương trình truyền hình Shelter From The Storm nhằm cứu trợ cho những nạn nhân của cơn bão kinh hoàng Katrina hồi tháng 8 năm đó.
[sửa] Danh sách các đĩa hát
[sửa] Các album phòng thu |
[sửa] Các album khác[sửa] Video/DVD |
[sửa] Những đĩa đơn quán quân
Năm | Đĩa đơn | Album | Vị trí cao nhất | |||
---|---|---|---|---|---|---|
1990 | "Vision of Love" | Mariah Carey | 1 | 9 | 1 | 9 |
"Love Takes Time" | Mariah Carey | 1 | 37 | 1 | 14 | |
1991 | "Someday" | Mariah Carey | 1 | 38 | 5 | 44 |
"I Don't Wanna Cry" | Mariah Carey | 1 | - | 7 | 49 | |
"Emotions" | Emotions | 1 | 17 | 3 | 11 | |
1992 | "I'll Be There" (với Trey Lorenz) | MTV Unplugged | 1 | 2 | 1 | 9 |
1993 | "Dreamlover" | Music Box | 1 | 9 | 1 | 7 |
"Hero" | Music Box | 1 | 7 | 10 | 7 | |
1994 | "Without You" | Music Box | 3 | 1 | 2 | 3 |
1995 | "Fantasy" | Daydream | 1 | 4 | 1 | 1 |
"One Sweet Day" (với Boyz II Men) | Daydream | 1 | 6 | 2 | 2 | |
1996 | "Always Be My Baby" | Daydream | 1 | 3 | 2 | 17 |
1997 | "Honey" | Butterfly | 1 | 3 | 2 | 8 |
1998 | "My All" | Butterfly | 1 | 4 | 12 | 39 |
1999 | "Heartbreaker" (feat. Jay-Z) | Rainbow | 1 | 5 | 1 | 10 |
2000 | "Thank God I Found You" (với Joe và 98 Degrees) | Rainbow | 1 | 10 | 2 | 27 |
"Against All Odds (Take a Look at Me Now)" (với Westlife) | Rainbow | - | 1 | 22 | - | |
2005 | "We Belong Together" | The Emancipation of Mimi | 1 | 2 | 2 | 1 |
"Don't Forget about Us" | The Emancipation of Mimi | 1 | 11 | 17 | 12 | |
2008 | "Touch My Body" | E=MC² | 1 | 5 | 2 | 17 |
số lượng đĩa đơn quán quân | 18 | 2 | 6 | 2 |
[sửa] Các giải Grammy
Năm | Đề cử | Tác phẩm được đề cử | Kết quả |
---|---|---|---|
1991 | Nghệ sĩ mới xuất sắc nhất | Đoạt giải | |
1991 | Trình diễn giọng Pop nữ xuất sắc nhất | "Vision of Love" | Đoạt giải |
1991 | Album của năm | Mariah Carey | Đề cử |
1991 | Thu âm của năm | "Vision of Love" | Đề cử |
1991 | Bài hát của năm | "Vision of Love" | Đề cử |
1992 | Nhà sản xuất của năm | Đề cử | |
1992 | Trình diễn giọng Pop nữ xuất sắc nhất | "Emotions" | Đề cử |
1993 | Trình diễn giọng Pop nữ xuất sắc nhất | MTV Unplugged | Đề cử |
1993 | Nhóm nhạc hát giọng R&B xuất sắc nhất | "I'll Be There" (với Trey Lorenz) | Đề cử |
1994 | Trình diễn giọng Pop nữ xuất sắc nhất | "Dreamlover" | Đề cử |
1995 | Trình diễn giọng Pop nữ xuất sắc nhất | "Hero" | Đề cử |
1996 | Hợp tác nhạc Pop hiệu quả nhất | "Endless Love" (với Luther Vandross) | Đề cử |
1996 | Album của năm | Daydream | Đề cử |
1996 | Thu âm của năm | "One Sweet Day" (với Boyz II Men) | Đề cử |
1996 | Album nhạc Pop xuất sắc nhất | Daydream | Đề cử |
1996 | Trình diễn giọng Pop nữ xuất sắc nhất | "Fantasy" | Đề cử |
1996 | Trình diễn giọng R&B nữ xuất sắc nhất | "Always Be My Baby" | Đề cử |
1996 | Hợp tác giọng Pop ăn ý nhất | "One Sweet Day" (với Boyz II Men) | Đề cử |
1998 | Trình diễn giọng Pop nữ xuất sắc nhất | "Butterfly" | Đề cử |
1998 | Trình diễn giọng R&B nữ xuất sắc nhất | "Honey" | Đề cử |
1998 | Bài hát R&B hay nhất | "Honey" | Đề cử |
1999 | Hợp tác nhạc Pop hiệu quả nhất | "When You Believe" (với Whitney Houston) | Đề cử |
2001 | Hợp tác nhạc Pop hiệu quả nhất | "Thank God I Found You" (với Joe & 98 Degrees) | Đề cử |
2006 | Bài hát R&B hay nhất | "We Belong Together" | Đoạt giải |
2006 | Trình diễn giọng R&B nữ xuất sắc nhất | "We Belong Together" | Đoạt giải |
2006 | Album R&B đương đại xuất sắc nhất | The Emancipation of Mimi | Đoạt giải |
2006 | Trình diễn giọng Pop nữ xuất sắc nhất | "It's Like That" | Đề cử |
2006 | Thu âm của năm | "We Belong Together" | Đề cử |
2006 | Album của năm | The Emancipation of Mimi | Đề cử |
2006 | Bài hát của năm | "We Belong Together" | Đề cử |
2007 | Bài hát R&B hay nhất | "Don't Forget About Us" | Đề cử |
2007 | Trình diễn giọng R&B nữ xuất sắc nhất | "Don't Forget About Us" | Đề cử |
[sửa] Tour lưu diễn
- 1993: Music Box Tour
- 1996: Daydream World Tour
- 1998: Butterfly World Tour
- 2000: Rainbow World Tour
- 2003–2004: Charmbracelet World Tour: An Intimate Evening with Mariah Carey
- 2006: The Adventures of Mimi Tour
[sửa] Danh sách các phim
- The Bachelor (1999)
- Glitter (2001)
- Ally McBeal (tập phim: "Playing with Matches", 2002)
- WiseGirls (2002)
- Death of a Dynasty (cameo, 2003)
- State Property 2 (2005)
- Tennessee
- You Don't Mess with the Zohan
[sửa] Hình ảnh
[sửa] Chú thích
- ^ "Những người thắng cuộc tại World Music Awards". World Music Awards. Tháng 5 2000. Truy cập ngày 19 tháng 11 2006 từ Wayback Machine; "Michael Jackson và Mariah Carey được ghi nhận là hai ca sĩ bán được nhiều đĩa hát nhất của thiên niên kỷ tại World Music Awards (Monaco)". Jet. May 29 2000. Retrieved November 19 2006.
- ^ a b Farber, Jim. "More like a screaming 'Mimi'". New York Daily News. 12 tháng 4 2005. Truy cập ngày 10 tháng 3 2006.
- ^ a b Tannenbaum, Rob. "Mariah Carey: Emotions". Rolling Stone. RS 617, 14 tháng 11 1991. Truy cập ngày 12 tháng 3 2006.
- ^ Tạp chí Forbes
- ^ Shapiro, Marc. Mariah Carey (2001). Trang 19–20. ISBN 1550224441.
- ^ "Miss Mariah". Tạp chí Cosmopolitan. Tháng 12 năm 1997. UNIQ698d95a8273ef6b-HTMLCommentStrip15527b2c27d27bee00000001
- ^ a b c d Gardner, Elysa. "Cinderella Story". Vibe. Tháng 4 năm 1996. UNIQ698d95a8273ef6b-HTMLCommentStrip15527b2c27d27bee00000002
- ^ Shapiro, trang 60
- ^ Evans, Paul. The Rolling Stone Album Guide (1992). trang 110–111. ISBN 0863696430.
- ^ Shapiro, trang 62
- ^ Shapiro, trang 69
- ^ Sandow, Greg. "MTV Unplugged EP". Giải trí hàng tuần. 19 tháng 6 năm 1992. UNIQ698d95a8273ef6b-HTMLCommentStrip15527b2c27d27bee00000003
- ^ White, Timothy. "Mariah Carey's stirring 'Music Box'". Tạp chí Billboard. New York: trang 5, 28 tháng 8 năm 1993, Vol. 105, Iss. 35.
- ^ Farley, Christopher John. "Hurray! a B Minus!". Tạp chí Time. 6 tháng 9 năm 1993. Được lấy ngày 4 tháng 3 năm 2006.
- ^ Shapiro, trang 78
- ^ Parisien, Roch. "Merry Christmas – Review". All Music Guide. Retrieved March 17 2006.
- ^ Healey, Mitchell. "Carey On". V. January 20 2006. UNIQ698d95a8273ef6b-HTMLCommentStrip15527b2c27d27bee00000004
- ^ Shapiro, pg. 92.
- ^ Shapiro, pg. 94–96.
- ^ Holden, Stephen. "Mariah Carey Glides Into New Territory". New York Times. pg. 76, October 13 1995. UNIQ698d95a8273ef6b-HTMLCommentStrip15527b2c27d27bee00000005
- ^ Shapiro, pg. 97–98.
- ^ Shapiro, pg. 101.
- ^ Reynolds, J.R. "Album Review: Butterfly". Yahoo! Music. 16 tháng 9 năm 1997. Truy cập 17 tháng 3 năm 2006.
- ^ Johnson, Connie. Los Angeles Times. trang 58, 14 tháng 9 năm 1997.
- ^ Shapiro, pg. 112.
- ^ Shapiro, trang 116
- ^ "#1's". NME. Truy cập 10 tháng 3 năm 2006.
- ^ Haring, Bruce. "Mariah: I'm Not a Diva". Yahoo! Music. 14 tháng 5 năm 1998. Được lấy ngày 17 tháng 3 năm 2006.
- ^ Virtue, Graham. "Rainbow, Mariah Carey". Sunday Herald. 7 tháng 11 năm 1999. UNIQ698d95a8273ef6b-HTMLCommentStrip15527b2c27d27bee00000006
- ^ "Mariah Carey, Rainbow". Vibe. trang 258, tháng 12 năm 1999.
- ^ Shapiro, trang 134
- ^ Friedman, Roger. "Mariah Melts Down; Madonna Disappoints". FOX News. 26 tháng 7 năm 2001. Truy cập 17 tháng 3 2006.
- ^ a b c d Gardner, Elysa. " "Mariah Carey, 'standing again'". USA Today. 28 tháng 11 năm 2002. Truy cập 17 tháng 3 năm 2006.
- ^ "Carey Shocked by MTV Striptease Fuss". Internet Movie Database. 3 tháng 12 năm 2002. Được lấy ngày 17 tháng 13 năm 2006.
- ^ a b Cook, Shanon. "Mariah before breakdown -- 'It all seems like one continuous day'". CNN. 14 tháng 8 năm 2001. Được lấy ngày 17 tháng 3 năm 2006.
- ^ "The fall and rise of Mariah Carey". BBC.co.uk. 8 tháng 2 năm 2006. Truy cập 12 tháng 3 năm 2006.
- ^ Anderman, Joan. "For Carey, the Glory's Gone but the Glitter Lives On". Boston Globe. pg. D.4, 10 tháng 9 năm 2003 [THIRD Edition].
- ^ Walters, Barry. "Charmbracelet". Rolling Stone. New York: pg. 93, 12 tháng 12 năm 2002, iss. 911.
- ^ "Diamond Award". World Music Awards. Truy cập 7 tháng 4 năm 2006.
- ^ Ferber, Lawrence. "Mariah Carey: Free at last". HX. 4 tháng 4 năm 2005. UNIQ698d95a8273ef6b-HTMLCommentStrip15527b2c27d27bee00000007
- ^ Sullivan, Caroline. "Mariah Carey, The Emancipation of Mimi". The Guardian. 1 tháng 4 năm 2005. Truy cập 17 tháng 3 năm 2006.
- ^ "Hollywood Walk of Fame names 2007 honorees". Associated Press. 23 tháng 6 năm 2006. Truy cập 1 tháng 8 năm 2006.
- ^ "Mariah Carey xác nhận album E=MC2" MariahCarey.com. Truy cập 13 tháng 2 năm 2008.
- ^ Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên18No1
- ^ Mariah Carey surpasses Elvis in No. 1s. MSNBC. April 2 2008. Retrieved April 2 2008.
- ^ Pietroluongo, Silvio. Mariah, Madonna eclipse Elvis in Billboard charts. Reuters. April 2 2008. Retrieved April 2 2008.
- ^ Tatara, Paul. "Review: 'The Bachelor' -- cold feet, bad film". CNN.com. November 9 1999. Retrieved March 17 2006.
- ^ Ebert, Roger. "'Glitter' glosses over important moments". Chicago Sun-Times. September 23 2001. Retrieved from the Wayback Machine on March 17 2006.
- ^ Walker, John. Halliwell's Film Guide 2004: 19th Edition (2003). pg. 338. UK: HarperCollins Publishers Inc. ISBN 0060554088.
- ^ Atkinson, Michael. "Eat Drink Man Mariah". The Village Voice. September 26–October 2 2001. Retrieved March 17 2006.
- ^ Honeycutt, Kirk. "Wisegirls". Hollywood Reporter. January 15 2002. Retrieved March 17 2006.
- ^ Friedman, Roger. "Mariah Makes Good in Mob Movie". FOX News. 14 tháng 1 2002. Truy cập 17 tháng 3 2006.
- ^ Moss, Corey. "Despite 'Glitter,' Mariah Carey's Movie Career Could Still Sparkle". MTV.com. 20 tháng 2 2002. Truy cập March 17 2006.
- ^ Serpe, Gina. "Mariah Pulls a J.Lo". E! Online. March 3 2006. Retrieved March 12 2006.
- ^ Mariah Carey trả lời phỏng vấn trên tạp chí văn hóa Pop Interview
- ^ Mikkelson, Barbara và David P. "Range Rover". "Urban Legends Reference Pages". 26 tháng 4 2000. Được lấy ngày 13 tháng 9 2006.
- ^ "Mariah Carey Ads Say the Voice Will Be Back, but She Says It Never Left". Yahoo! Music. 28 tháng 3 2005. Truy cập ngày17 tháng 3 2006.
- ^ Farley, Christopher John. "Pop's Princess Grows Up". Time. 25 tháng 9 1995. Truy cập 12 tháng 3 2006.
- ^ [http://www.reemna.com/newsfull.php?code1=1345 Yahoo! Music. Tháng 11 2005. Truy cập 12 tháng 3 2006.
- ^ Norent, Lynn. "Mariah Carey: 'Not another White girl trying to sing Black'". Ebony. March 1991. UNIQ698d95a8273ef6b-HTMLCommentStrip15527b2c27d27bee00000008
- ^ Shapiro, pg. 124.
- ^ Mulholland, Garry. The Illustrated Encyclopedia of Music (2003). pg. 57. UK: Flame Tree Publishing. ISBN 1904041701.
- ^ O'Brien, Lucy. She Bop II: The Definitive History of Women in Rock, Pop and Soul (2002). pg. 476–477. UK: Continuum. ISBN 0826457762 (paperback).
- ^ Guinness Rockopedia (1998). pg. 74. UK: Guinness Publishing Ltd. ISBN 0851120725.
[sửa] Tham khảo
- Shapiro, Marc. Mariah Carey (2001). Anh: ECW Press, Canada. ISBN 1550224441.
- Hardy, Phil. The Faber Companion to 20th Century Popular Music: Fully Revised Third Edition (2001). pg. 156–157. UK: Faber and Faber Limited. ISBN 057119608X.
- Mulholland, Garry. Bách khoa toàn thư về âm nhạc (có hình minh họa) (2003). trang 57. Anh: Flame Tree Publishing. ISBN 1904041701.
- Guinness Rockopedia (1998). Trang 74. Anh: NXB Guinness. ISBN 0851120725.
- Larkin, Colin. Bách khoa toàn thư về âm nhạc đại chúng quyển II: 3rd Edition (1998). trang 934. Anh: Muze UK Ltd. ISBN 0333741134X.
- O'Brien, Lucy. She Bop II: The Definitive History of Women in Rock, Pop and Soul (2002). pg. 29, 476–481. UK: Continuum. ISBN 0826457762 (paperback).
- Mariah Carey – Credits. All Music Guide. Được lấy ngày 18 tháng 11 2005.
- "Bảng xếp hạng và doanh thu tại nước Mỹ" biên soạn bởi tạp chí Billboard (http://www.billboard.com) và Nielsen SoundScan (http://www.soundscan.com/).
- "Bảng xếp hạng Anh quốc" biên soạn bởi "The Official UK Charts Company" (http://www.theofficialcharts.com/).
- "Bảnng xếp hạng Canada" biên soạn bởi Jam Canoe và Nielsen SoundScan; xem http://www.mariah-charts.com/chartdata/Canada.htm.
- "Bảng xếp hạng Úc" biên soạn bởi "the Australian Recording Industry Association"(http://www.aria.com.au/).
- "Bảng xếp hạng Nhật Bản" biên soạn bởi "the Tokio Hot 100"; xem http://www.mariah-charts.com/chartdata/Tokio.htm.
- People in the News. CNN. Airdate: 30 tháng 4 2005.
- Larry King Live. CNN. Airdate: 19 tháng 12 2002.
- "Mariah Carey to Receive Congressional Award for Charity Efforts". MTV.com 13 tháng 4 1999. Truy cập ngày 10 tháng 12 2005.
- Duffy, Mike. "Mariah Carey leads heartfelt holiday special to promote adoption". Detroit Free Press. 21 tháng 12 2001. Truy cập từ Wayback Machine ngày 10 tháng 12 2005.
- "Sự sa ngã và thăng hoa của Mariah Carey". BBC Anh. 8 tháng 2 2006. Truy cập ngày 12 tháng 3 2006.
- "Mariah Carey". Tạp chí Billboard. Truy cập ngày 12 tháng 3 2006.
- Norris, John. "Mariah: Những phối khí lại, hợp nhất lại". MTV.com. Tháng 10 2003. Truy cập ngày 12 tháng 3 2006.
[sửa] Liên kết ngoài
- Trang chủ của Mariah Carey
- Mariah Carey trên All Music Guide.
- Mariah Carey trên Rock on the Net.
- Mariah Carey trên trang Internet Movie Database.
- Mariah Carey trên YouTube.
- Google directory
Trước | Mariah Carey | Sau | ||
Milli Vanilli |
|
Marc Cohn | ||
Bonnie Raitt Nick of Time |
|
Bonnie Raitt Something to Talk About |
||
Usher Confessions |
|
Beyonce B'Day |
||
Alicia Keys If I Ain't Got You |
|
Mary J. Blidge Be Without You |
||
Alicia Keys You Don't Know My Name |
|
Mary J. Blidge Be Without You |
Mariah Carey |
---|
Album |
Mariah Carey ♪ Emotions ♪ Music Box ♪ Merry Christmas ♪ Daydream ♪ Butterfly ♪ Rainbow ♪ Glitter ♪ Charmbracelet ♪ The Emancipation of Mimi |
Đĩa đơn |
Tour lưu diễn |
Music Box Tour § Daydream World Tour § Butterfly World Tour § Rainbow World Tour § Charmbracelet World Tour: An Intimate Evening with Mariah Carey § The Re-Invention Tour § The Adventures of Mimi Tour |
Chủ đề khác |
Giải thưởng · Bài hát chưa phát hành · |
|
||
---|---|---|
Trên 500 triệu đĩa | Elvis Presley • Frank Sinatra • Bing Crosby • Michael Jackson The Beatles |
|
200-500 triệu đĩa | Cher • Madonna • Whitney Houston The Bee Gees • Queen • The Rolling Stones • Elton John • Cliff Richard • Led Zeppelin • Pink Floyd • Rod Stewart Celine Dion ABBA Julio Iglesias Tino Rossi Nana Mouskouri |
|
100-200 triệu đĩa | Mariah Carey • Janet Jackson • Lionel Richie • Prince • Aerosmith • Backstreet Boys • The Carpenters • Chicago • Eagles • Ricky Nelson • Kenny Rogers • Tina Turner • Dolly Parton • Donna Summer • Bon Jovi • The Beach Boys • Billy Joel • Brenda Lee Phil Collins • Black Sabbath • The Who • The Dave Clark Five • Deep Purple • Genesis • Iron Maiden • Electric Light Orchestra U2 AC/DC Luciano Pavarotti Dalida Modern Talking • James Last Đặng Lệ Quân |