See also ebooksgratis.com: no banners, no cookies, totally FREE.

CLASSICISTRANIERI HOME PAGE - YOUTUBE CHANNEL
Privacy Policy Cookie Policy Terms and Conditions
Kim Dung – Wikipedia tiếng Việt

Kim Dung

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Kim Dung

'Nhà văn Kim Dung, cây đại thụ trong làng tiểu thuyết võ hiệp hiện đại'
Sinh ngày: 1924
tại Triết Giang, Trung Quốc
Nghề nghiệp: Nhà văn, Nhà báo
Quốc tịch: Trung Quốc
Giai đoạn sáng tác: 1955 - 1972
Trường phái: Tiểu thuyết võ hiệp
Tác phẩm chính: Lộc đỉnh ký, Thiên long bát bộ, Xạ điêu tam bộ khúc...

Kim Dung (金庸 Jin Yong; sinh năm 1924) là một trong những nhà văn ảnh hưởng nhất của văn học Trung Quốc hiện đại. Ông còn là người đồng sáng lập của nhật báo Hồng Kông Minh Báo.

Từ năm 1955 đến 1972 ông đã viết tổng cộng 15 cuốn tiểu thuyết. Sự nổi tiếng của những bộ truyện đó khiến ông được coi là người viết tiểu thuyết võ hiệp thành công nhất. 300 triệu bản in (chưa tính một lượng rất lớn những bản lậu) đã đến tay độc giả của Trung Hoa đại lục, Hồng Kông, Đài Loan, châu Á và đã được dịch ra các thứ tiếng Việt, Hàn, Nhật, Thái, Anh, Pháp, Indonesia. Tác phẩm của ông đã được chuyển thể thành phim truyền hình, trò chơi điện tử.

Tên ông được đặt cho tiểu hành tinh 10930 Jinyong (1998 CR2). Tháng 2 năm 2006, ông được độc giả bầu là nhà văn được yêu thích nhất Trung Quốc[1].

Mục lục

[sửa] Tiểu sử

Tên

Tên thật Bút danh
Phồn thể 查良鏞 金庸
Giản thể 查良镛 金庸
Bính âm Zhā Liángyōng Jīnyōng
Quảng Đông
Chàh Lèuhng-yùhng Kām-yùhng
Thái กิมย้ง
Việt Nam Tra Lương Dung Kim Dung
Hàn Quốc Sa Ryang Yong Kim Yong

Kim Dung tên thật là Tra Lương Dung (查良鏞 Cha Lieng Yung, Louis Cha), sinh vào tháng 2 năm 1924 tại trấn Viên Hoa, huyện Hải Ninh, tỉnh Triết Giang, Trung Quốc, trong một gia tộc khoa bảng danh giá. Ông cố Tra Thận Hành là nhà thơ nổi tiếng đời nhà Thanh, ông nội Tra Văn Thanh làm tri huyện Đan Dương ở tỉnh Giang Tô. Tra Văn Thanh về sau từ chức, đến đời con là Tra Xu Khanh bắt đầu sa sút, Tra Xu Khanh theo nghề buôn, sau sinh sáu đứa con, Kim Dung là con thứ hai.

Thuở nhỏ Kim Dung là một đứa trẻ thông minh, hoạt bát, nghịch nhưng không đến nỗi quậy phá. Ông yêu thiên nhiên, thích nghe kể chuyện thần thoại, truyền thuyết, nhất là về những ngọn triều trên sông Tiền Đường. Đặc biệt ông rất mê đọc sách. Dòng họ Kim Dung có một nhà để sách gọi là “Tra thị tàng thư” nổi tiếng khắp vùng Chiết Tây, chứa rất nhiều sách cổ, những cuốn sách này làm bạn với ông từ rất bé.

Sáu tuổi, ông vào trường tiểu học ở quê Hải Ninh. Ông rất siêng học, lại thêm mê đọc sách nên trở thành một học sinh giỏi của lớp. Thầy dạy văn cho ông lúc bé có Trần Vị Đông, là người rất thương yêu và tin tưởng Kim Dung, đă cùng ông biên tập tờ báo lớp. Một số bài làm văn của Kim Dung, nhờ sự giới thiệu của thầy Đông đă được đăng lên Đông Nam nhật báo, tờ báo nổi tiếng nhất Trung Quốc bấy giờ.

Năm lên tám tuổi, ông lần đầu đọc tiểu thuyết võ hiệp, khi đọc đến bộ truyện Hoàng Giang nữ hiệp của Cố Minh Đạo, cảm thấy rất say mê, từ đó thường sưu tầm tiểu thuyết thể loại này.

Năm 13 tuổi, xảy ra sự biến Lư Câu Kiều, Kim Dung được gửi đến học trường trung học Gia Hưng ở phía Đông tỉnh Chiết Giang. Tuy xa nhà nhưng cuộc sống của ông cũng không khác mấy, ngoài đi học vẫn chúi đầu đọc sách, và vẫn đứng đầu lớp. Một hôm nhân dịp về thăm nhà, ông khoe gia đình cuốn sách Dành cho người thi vào sơ trung, một cuốn cẩm nang luyện thi, có thể coi là cuốn sách đầu tiên của ông, viết năm 15 tuổi và được nhà sách chính quy xuất bản. Đến khi lên bậc Cao trung, Kim Dung lại soạn Hướng dẫn thi vào cao trung. Hai cuốn sách in ra bán rất chạy, đem lại cho ông khoảng nhuận bút hậu hĩnh.

Năm 16 tuổi, ông viết truyện trào phúng Cuộc du hành của Alice có ư châm biếm ngài chủ nhiệm ban huấn đạo, người này tức giận, liền ép hiệu trưởng phải đuổi học ông. Cuộc du hành của Alice tuy đem lại tai hại, nhưng đă cho thấy tài tưởng tượng, cũng như tinh thần phản kháng của Kim Dung, mà sau này thể hiện rất rõ trên các tác phẩm. Ông lại chuyển đến học trường Cù Châu. Tại trường này có những quy định rất bất công với học trò, học sinh không được quyền phê bình thầy giáo, nhưng thầy giáo có quyền lăng nhục học sinh. Năm thứ hai tại trường, ông viết bài Một sự ngông cuồng trẻ con đăng lên Đông Nam nhật báo. Bài báo làm chấn động dư luận trong trường, được giới học sinh tranh nhau đọc. Ban giám hiệu trường Cù Châu đành phải bãi bỏ những quy định nọ. Không những vậy, một ký giả của Đông Nam nhật báo là Trần Hướng Bình do hâm mộ tác giả bài báo, đã lặn lội tìm đến trường học để thỉnh giáo, mà không biết tác giả chỉ là một học sinh.

Năm 1941, chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ, trường Cù Châu phải di dời, ban giám hiệu quyết định cho học sinh lớp cuối tốt nghiệp sớm để bớt đi gánh nặng. Kim Dung cũng nằm trong số đó. Sau ông thi vào học Luật quốc tế tại học viện chính trị Trung ương ở Trùng Khánh. Thi đậu, nhưng để đến được trường phải trải qua nhiều ngày đi bộ.

Tại học viện chính trị Trung Ương, Kim Dung vẫn học rất giỏi, cuối năm nhất ông được tặng phần thưởng cho sinh viên xuất sắc nhất. Thời kỳ này, ông ngoài tham gia viết bình luận chính trị trên các báo, còn bắt tay vào làm cuốn AnhHán tự điển và dịch một phần Kinh Thi sang tiếng Anh, hai công trình này về sau dở dang. Ông học lên năm thứ ba thì tại trường bắt đầu nổi lên các cuộc bạo loạn chính trị. Có lần viết thư tố cáo một vụ bê bối trong trường, Kim Dung lần thứ hai trong đời bị đuổi học, năm 19 tuổi.

Sau ông xin làm việc tại Thư viện trung ương. Ở chung với sách, tri thức nâng cao lên rất nhiều. Ngoài đọc sách sử học, khoa học và những tiểu thuyết võ hiệp đương thời, ông còn đọc những cuốn như Ivanhoe của Walter Scott, Ba người lính ngự lâm, Bá tước Monte-Cristo của Alexandre Dumas (cha), những truyện này đã ảnh hưởng đến văn phong của ông. Tại đây ông bắt đầu nảy sinh ý định sáng tác truyện võ hiệp. Ông cũng sáng lập ra một tờ báo lấy tên Thái Bình dương tạp chí, nhưng chỉ ra được một số đầu, số thứ 2 nhà xuất bản không chịu in, tờ báo đầu tiên của ông xem như thất bại.

Năm 1944, ông đến làm việc cho một nông trường ở Tương Tây. Nơi này rất tịch mịch hẻo lánh, đến năm 1946, không chịu nổi ông xin thôi việc, người chủ nông trường không cản được, tiễn ông bằng một bữa thịnh soạn. Mùa hạ năm đó, ông về lại quê cũ ở Hải Ninh, cha mẹ nghe tin ông bị đuổi học, rất buồn. Điều ấy khiến ông quyết tâm ra đi lập nghiệp.

Năm 1946 từ biệt gia đình, ông về Hàng Châu làm phóng viên cho tờ Đông Nam nhật báo theo lời giới thiệu của Trần Hướng Bình, người ngày xưa đã tìm đến trường ông. Ông làm việc rất tốt, tỏ ra có tài thiên phú về viết báo. Năm sau, theo lời mời của tạp chí Thời dữ triều, ông thôi việc ở Đông Nam nhật báo, sang Thượng Hải tiếp tục nghề viết hay dịch thuật từ máy Radio. Chẳng bao lâu ông lại rời toà soạn Thời dữ triều, xin vào làm phiên dịch của tờ Đại công báo. Lúc này anh trai của Kim Dung là Tra Lương Giám đang làm giáo sư ở học viện Pháp lý thuộc đại học Đông Ngô gần đó, ông liền xin vào học tiếp về luật quốc tế.

Năm 1948, tờ Đại công báo ra phụ bản tại Hồng Kông, ông được cử sang làm việc ở đó, dịch tin quốc tế. Trước khi ra đi vài ngày, ông chạy đến nhà họ Đỗ để ngỏ lời cầu hôn cô con gái 18 tuổi, được chấp nhận. Hôn lễ tổ chức trang trọng tại Thượng Hải, người vợ đầu tiên của ông rất xinh đẹp.

Năm 1950, trong cuộc Cải cách ruộng đất ở Trung Quốc, gia đình ông bị quy thành phần địa chủ, cha ông bị đấu tố, từ đó ông mất liên lạc với gia đ́nh. Trong lúc này, vợ ông không chịu nổi cuộc sống ở Hồng Kông, trở về gia đình bên mẹ, không chịu về nhà chồng nữa. Năm 1951 họ quyết định ly hôn.

Năm 1952, ông sang làm việc cho tờ Tân văn báo, phụ trách mục Chuyện trà buổi chiều, chuyên mục này giúp ông phát huy khả năng viết văn của mình hơn, ông rất thích, một phần vì khán giả cũng rất thích. Ông còn viết phê bình điện ảnh. Từ đó dần đi sâu vào lĩnh vực này. Từ 1953, rời Tân Văn báo, bắt tay vào viết một số kịch bản phim như Lan hoa hoa, Tuyệt đại giai nhân, Tam luyến… dưới bút danh Lâm Hoan. Những kịch bản này dựng lên được các diễn viên nổi tiếng thời bấy giờ như Hạ Mộng, Thạch Tuệ, Trần Tứ Tứ… diễn xuất. Được nhiều thành công đáng kể.

Từ khi mới vào làm cho Tân Văn Báo, ông quen thân với La Phù và Lương Vũ Sinh. Đến năm 1955, được hai người ủng hộ và giúp đỡ, ông viết truyện võ hiệp đầu tay là Thư kiếm ân cừu lục, đăng hàng ngày trên Hương Cảng tân báo, bút danh Kim Dung cũng xuất hiện từ đây. Hai chữ "Kim Dung" 金庸 là chiết tự từ chữ "Dung" 鏞, tên thật của ông, nghĩa là "cái chuông lớn". Thư kiếm ân cừu lục ra đời, tên Kim Dung được chú ý đến, dần dần, ông cùng Lương Vũ Sinh được xem như hai người khai tông ra Tân phái của tiểu thuyết võ hiệp. Ông viết tiếp bộ Bích Huyết kiếm được hoan nghênh nhiệt liệt, từ đó chuyên tâm vào viết tiểu thuyết võ hiệp và làm báo, không hoạt động điện ảnh nữa.

Năm 1959, cùng với bạn học phổ thông Trầm Bảo Tân, ông lập ra Minh Báo. Ông vừa viết tiểu thuyết, vừa viết các bài xă luận. Qua những bài xă luận của ông, Minh Báo càng ngày được biết đến và là một trong những tờ báo được đánh giá cao nhất. Không như một số tờ báo do ông sáng lập khác, Minh Báo theo ông đến khi kết thúc sự nghiệp.

Năm 1972 sau khi viết cuốn tiểu thuyết cuối cùng, ông đă chính thức nghỉ hưu và dành những năm sau đó biên tập, chỉnh sửa các tác phẩm văn học của mình. Lần hoàn chỉnh đầu tiên là vào năm 1979. Lúc đó, các tiểu thuyết võ hiệp của ông đă được nhiều độc giả biết điến. Các tác phẩm đã được chuyển thể thành phim truyền hình. Năm sau, ông tham gia giới chính trị Hồng Kông. Ông là thành viên của ủy ban phác thảo Đạo luật cơ bản Hồng Kông. Ông cũng là thành viên của Ủy ban chuẩn bị giám sát sự chuyển giao của Hồng Kông về chính phủ Trung Quốc.

Vào tháng 10 năm 1976, sau cái chết đột ngột của con trai trưởng của mình, Kim Dung đã quyết định tìm hiểu nhiều vào các triết lý của tôn giáo. Kết quả là ông tự mình quy y Phật giáo hai năm sau đó.[2]

Năm 1993, ông thôi làm chức chủ bút, bán tất cả các cổ phần trong Minh Báo.

Năm 2006, ông xuất bản cuốn tản văn đầu tiên.[3]

[sửa] Kim Dung ở Việt Nam

Dịch giả đầu tiên dịch tác phẩm Kim Dung tại Việt Nam được ghi nhận là Tiền Phong Từ Khánh Phụng với bản dịch Cô gái Đồ Long, in trên báo Đồng Nai vào năm 1961. Trên thực tế, trước đó, đã có một số bản dịch như Bích Huyết kiếm của Từ Khánh Phụng (báo Đồng Nai), Anh hùng xạ điêu của Đồ Mập (báo Dân Việt), Thần điêu đại hiệp của Vũ Tài Lục và Hải Âu Tử (báo Mới). Tuy nhiên, đến bản dịch Cô gái Đồ Long ra đời đã thực sự tạo nên cơn sốt truyện Kim Dung tại miền Nam kéo dài mãi đến tận năm 1975. Hai dịch giả truyện Kim Dung nổi tiếng tại Việt Nam thời kỳ này là Hàn Giang Nhạn và Thương Lan. Một số nhà bình luận Kim Dung cũng nổi lên trong thời kỳ này như Đỗ Long Vân với loạt bài "Vô Kỵ giữa chúng ta", theo đó, nhiều nhà văn nổi tiếng cũng tham gia bình luận Kim Dung như Bùi Giáng, Bửu Ý.

Sau 1975, các tác phẩm của Kim Dung bị nhà nước Việt Nam liệt vào danh sách cấm cùng với các tác gia kiếm hiệp khác như Cổ Long, Trần Thanh Vân... với lý do "Văn hóa đồi trụy phản động". Lệnh cấm này duy trì mãi đến năm 1990. Tuy nhiên, trong suốt thời gian đó, các bản sách cũ vẫn được lén lút lưu giữ và được nhiều người truyền tay đọc. Đầu thập niên 1990, với ảnh hưởng của phong trào Đổi mới, chính quyền Việt Nam đã bớt dần sự gắt gao với thể loại truyện võ hiệp. Một số phim và sách võ hiệp được phát hành. Thêm vào đó, sự phát triển của Internet đã giúp cho nhiều người có cơ hội đọc sách Kim Dung qua mạng.

Nhà văn Vũ Đức Sao Biển là người đầu tiên giới thiệu sự trở lại của tác phẩm Kim Dung với bạn đọc Việt Nam sau 1975 với tuyển tập "Kim Dung giữa đời tôi". Công ty Văn hóa Phương Nam là công ty đầu tiên có bản quyền và phát hành tất cả các tác phẩm võ hiệp của Kim Dung từ sau 1975. Từ năm 1999, Phương Nam đã mua toàn bộ bản quyền tác phẩm của Kim Dung, thông qua thương lượng trực tiếp với nhà văn. Các bản văn được mua đều là những bản được chính Kim Dung hiệu đính và chỉnh sửa mới nhất. Kể từ tháng 6 năm 2006, toàn bộ tác phẩm của Kim Dung được dịch lại và phát hành ở Việt Nam theo các bản hiệu đính mới nhất.

Các dịch giả truyện Kim Dung được đánh giá cao trong thời kỳ này có Cao Tự Thanh và Vũ Đức Sao Biển. Ở hải ngoại, dịch giả Nguyễn Duy Chính cũng được xem là dịch giả có chất lượng dịch tốt nhất với hàng loạt bản dịch của ông được lưu truyền trên Internet.

[sửa] Vinh dự

Ngoài các tiểu thuyết võ hiệp, ông còn viết các truyện lịch sử Trung Quốc. Ông đã được trao tặng nhiều huân chương danh dự.

Kim Dung đã được trao tặng huân chương OBE của Vương Quốc Anh năm 1981, và Légion d'honneur năm 1982, Commandeur de l'Ordre des Arts et des Lettres năm 2004 của chính phủ Pháp.

Ông cũng là giáo sư danh dự của nhiều trường đại học như Bắc Kinh, Triết Giang, Nam Khai, Hồng Kông, British Columbia cũng như là tiến sĩ danh dự của đại học Cambridge

[sửa] Tác phẩm

Kim Dung viết tổng cộng 15 truyện trong đó 1 truyện ngắn và 14 tiểu thuyết. Hầu hết các tiểu thuyết đều được xuất bản trên các nhật báo.

  1. Thư kiếm ân cừu lục (1955) (書劍恩仇錄)
  2. Bích huyết kiếm (1956) (碧血劍)
  3. Xạ điêu anh hùng truyện (1957) (射雕英雄傳)- tại Việt Nam được dịch thành Anh hùng xạ điêu.
  4. Thần điêu đại hiệp hay Thần điêu hiệp lữ (1959) (神雕俠侶).
  5. Tuyết sơn phi hồ (1959) (雪山飛狐)
  6. Phi hồ ngoại truyện (1960) (飛狐外傳)
  7. Bạch mã khiếu tây phong (1961) (白馬嘯西風)
  8. Uyên ương đao (1961) (鴛鴦刀)
  9. Ỷ Thiên Đồ Long ký (1961) (倚天屠龍記)
  10. Liên thành quyết bản dịch của Vô Nại tiên sinh và của Hàn Giang Nhạn (1963) (連城訣)
  11. Thiên long bát bộ bản cũbản mới (1963) (天龍八部)
  12. Hiệp khách hành (1965) (俠客行)
  13. Tiếu ngạo giang hồ bản cũ, năm (1967) (笑傲江湖)
  14. Lộc Đỉnh ký bản cũbản mới (1969-1972) (鹿鼎記)
  15. Việt nữ kiếm (truyện ngắn, 1970) (越女劍)

3 truyện Anh hùng xạ điêu, Thần điêu đại hiệp, Ỷ thiên đồ long ký tạo thành Xạ điêu tam bộ khúc, đọc theo lần lượt. Thiên Long bát bộ cũng có thể coi là mở đầu của bộ ba cuốn truyện trên. Tuyết sơn phi hồPhi hồ ngoại truyện cũng đi đôi với nhau vì có cùng các nhân vật.

[sửa] Hai câu thơ sắp thành tựa đề

Sau khi Kim Dung hoàn thành các tác phẩm của mình, một người bạn của ông là Nghê Khuông phát hiện rằng chữ đầu tiên của tựa đề 14 tiểu thuyết tạo thành hai câu thơ thất ngôn:

Phi tuyết liên thiên xạ bạch lộc
Tiếu thư thần hiệp ỷ bích uyên

[sửa] Đề tài

Chủ nghĩa yêu nước Trung Quốc là đề tài chủ yếu trong các tác phẩm của Kim Dung. Ông nhấn mạnh đến sự độc lập tự chủ của người Hán, và nhiều tác phẩm của ông là bối cảnh khi Trung Quốc bị đe dọa bởi những người phương bắc như Khiết Đan, Nữ Chân, Mông Cổ, Mãn Châu. Nhưng dần dần chủ nghĩa yêu nước của ông cũng bao gồm các dân tộc thiểu số tạo thành nước Trung Quốc bây giờ. Kim Dung đặc biệt khâm phục các đặc điểm của người Mông Cổ, Mãn. Trong Anh hùng xạ điêu, hình tượng của Thành Cát Tư Hãn và các con của ông là những vị tướng tài giỏi đứng lên chống lại sự thối nát của triều đại Tống. Hoặc như trong Lộc Đỉnh ký, Kim Dung miêu tả vua Khang Hy nhà Thanh là một người có lòng trắc ẩn và có năng lực. Trong Thiên long bát bộ, Kiều Phong mặc dù là người Khiết Đan nhưng từ nhỏ đã được người Hán nuôi dưỡng. Chính điều đó đã khiến Kiều Phong ngăn cản vua Liêu tiến quân.

Các tác phẩm của Kim Dung có thể coi là cuốn từ điển nhỏ về phong tục, tập quán, văn hóa Trung Hoa, bao gồm các lĩnh vực y thuật dân tộc Trung Quốc, châm cứu, võ thuật, âm nhạc, thư pháp, cờ vây, trà đạo, các triết học của đạo Khổng, đạo Phậtđạo Lão, và lịch sử phong kiến Trung Hoa. Các nhân vật lịch sử hòa trộn vào các nhân vật trong truyện.

Các tác phẩm của ông rõ ràng đã tỏ lòng tôn trọng và tán thành các giá trị truyền thồng Trung Hoa, đặc biệt là các quan niệm Khổng giáo như là mối quan hệ giữa vua tôi, cha con, anh em, và nhất là giữa sư phụ và đồ đệ, giữa các huynh đệ. Kim Dung cũng nhấn mạnh vào các giá trị truyền thống như là danh dự và thể diện.

Cuối cùng ông phá vỡ các phép tắc đó trong tác phẩm cuối cùng Lộc Đỉnh ký. là một nhân vật chính nhưng Vi Tiểu Bảo không theo mô thức của các nhân vật chính mà Kim Dung đã dàn dựng, không phải là một biểu tượng của một anh hùng hảo hán, chính tà bất phân, không theo một tiêu chuẩn đạo đức nhất định, nhưng là một kẻ sống rất "nghĩa khí" và rất hết lòng vì bạn bè.

[sửa] Phê bình

Các tác phẩm của Kim Dung đã nhận được nhiều phê bình từ độc giả và các nhà phê bình văn học. Nghê Khuông, một nhà văn nổi tiếng và là bạn của Kim Dung đã viết rất nhiều bài viết phân tích các nhân vật và thế giới võ thuật trong các tác phẩm của ông.

Tuy nhiên nhiều tác phẩm của Kim Dung đã bị cấm ở nhiều nơi ngoài Hồng Kông vì những lí do chính trị. Nhiều tác phẩm bị cấm ở Trung Hoa đại lục vì bị cho là chế nhạo Mao Trạch Đông và Cải cách văn hóa. Chính quyền Đài Loan cũng cấm vì cho rằng các tác phẩm này ủng hộ Đảng Cộng sản Trung Quốc. Hiện giờ các tác phẩm của Kim Dung không bị cấm nữa. Một số chính trị gia như Đặng Tiểu Bình còn là người hâm mộ các tác phẩm của ông.

Cuối năm 2004, nhà xuất bản giáo dục nhân dân của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã đưa tác phẩm Thiên long bát bộ vào sách giáo khoa lớp 12. Bộ Giáo dục Singapore cũng làm như vậy đối với các trường cấp 2, 3 sử dụng tiếng Trung Quốc.

[sửa] Tác phẩm dựa Kim Dung

Có thể một phần vì muốn hoàn thiện các khe hở tình tiết trong truyện Kim Dung, phần vì muốn phát triển rộng thêm các chi tiết truyện, phần là ăn theo, rất nhiều người đã viết truyện dựa theo cốt, theo nhân vật trong truyện Kim Dung mà tạo dựng nhiều tác phẩm khác, thậm chí dựng thành phim, gọi chung là các tác phẩm dựa Kim Dung xem tại đây:

Tác phẩm Người dịch Người viết
1 Bẻ kiếm bên trời Hàn Giang Nhạn
2 Cự Linh Thần Chưởng Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh
3 Độc Cô Quái Khách Hàn Giang Nhạn
4 Đơn kiếm diệt quần ma Tiền Phong Từ Khánh Phụng
5 Hắc Thánh Thần Tiêu Thương Lan
6 Hậu Anh Hùng Xạ Điêu
7 Hậu Cô Gái Đồ Long
Ỷ Thiên Đồ Long Ký hậu truyện
8 Huyết Mỹ Nhân
9 Loạn Võ Công Ký Phạm Thế Tài
10 Ma Nữ Đa Tình
11 Song Nữ Hiệp Hồng Y Tiền Phong Từ Khánh Phụng
12 Thái A Kiếm Tiền Phong Từ Khánh Phụng
13 Thạch Phá Thiên
Hậu Hiệp Khách hành
14 Tiếng Đàn Ma
15 Tiếu Ngạo Giang Hồ Hậu Ký TMP
16 Tiểu Tà Thần Tiền Phong Từ Khánh Phụng
17 Tục Thái A Kiếm
18 Tục Tiểu Tà Thần
19 Võ Lâm Ngũ Bá
Anh Hùng Xạ Điêu tiền truyện

[sửa] Nhân vật

Truyện Kim Dung có rất nhiều nhân vật đều được khắc họa theo lối ấn tượng, mỗi người có một tính cách riêng biệt, tính cách ấy nhiều khi được thể hiện lên tên hay ngoại hiệu của nhân vật, ví dụ:

  • Điền Bá Quang có ngoại hiệu là Giang dương đại đạo Thái hoa dâm tặc Vạn lý độc hành Khoái đao, mười hai chữ ấy mô tả đặc điểm của Điền Bá Quang và tài khinh công của y, khoái đao là món vũ khí y thường xài.
  • Hoàng Dược Sư ngoại hiệu Đông Tà, thì y có cái vẻ tà quái khác thường, Tương tự với Âu Dương Phong ngoại hiệu là Tây Độc, là một tay độc địa chuyên sử dụng độc dược hại người.

Ngược lại, có những nhân vật đặt ngoại hiệu cho mình không xứng hợp với bản chất: những tên võ công thấp kém, danh tiếng nhỏ mọn thường đặt cho mình những ngoại hiệu nghe rất to tát.

Về bản chất, các nhân vật (kể cả các bang hội) chia rõ ra hai phe chính - tà trên danh nghĩa. Nhưng sự thật ai cũng thấy là những người thuộc về phe tà không hẳn là một phường gian ác, mà những kẻ phe chính cũng không nhuần là nhân nghĩa. Có những nhân vật ra mặt đức độ rất lâu, đến một lúc nào đó lại hiện rõ sự gian ác, tráo trở làm người đọc không khỏi bất ngờ.

[sửa] Nhân vật nam

Các nhân vật nam chính thường được mô tả từ khi còn nhỏ, cốt truyện tiếp nối các gian nan, thử thách của họ trước khi đạt tới trình độ võ công cao nhất; Trong truyện Kim Dung, những người đạt tới cảnh giới cao nhất của võ học đều là Nam giới, như Tạ Tốn, Hồng Thất Công, Âu Dương Phong, Độc Cô Cầu Bại...Những nhân vật Nam cũng là thường đầu mối chính trong các xung đột lớn nhỏ, vì ngoài số ít những kẻ chất phác, Kim Dung thường cho những nhân vật nam tính ham công danh lợi lộc, dẫn đến tàn sát lẫn nhau.

  • Trần Gia Lạc: Thư kiếm ân cừu lục
  • Viên Thừa Chí: Bích huyết kiếm
  • Quách Tĩnh: Anh hùng xạ điêu
  • Dương Quá: Thần điêu đại hiệp
  • Hồ Nhất Đao: Tuyết sơn phi hồ
  • Miêu Nhân Phượng: Tuyết sơn phi hồ/ Phi hồ ngoại truyện
  • Hồ Phỉ: Tuyết sơn phi hồ/ Phi hồ ngoại truyện
  • Trương Thúy Sơn: Ỷ Thiên Đồ Long ký
  • Trương Vô Kỵ: Ỷ Thiên Đồ Long ký
  • Địch Vân: Liên thành quyết
  • Tiêu Phong: Thiên long bát bộ
  • Đoàn Dự: Thiên long bát bộ
  • Hư Trúc: Thiên long bát bộ
  • Thạch Phá Thiên: Hiệp khách hành
  • Lệnh Hồ Xung: Tiếu ngạo giang hồ
  • Vi Tiểu Bảo: Lộc Đỉnh Ký

[sửa] Nhân vật nữ

Mặc dù nữ nhân vật trong nhiều tác phẩm võ thuật được tạo ra để minh hoạ cho tình yêu của các nhân vật nam, nhiều nhân vật nữ lại là trung tâm của cốt truyện, được miêu tả là những cá nhân không bị lệ thuộc, mạnh mẽ, độc lập, thông minh, và có võ thuật tài giỏi. Ví dụ, Hoàng Dung trong Anh hùng xạ điêu' không chỉ là người Quách Tĩnh yêu mến mà còn là một cô gái dí dỏm, thông minh hơn cả chồng mình là Quách Tĩnh. Năng lực trí tuệ của cô cùng với sức mạnh cơ thể của Quách Tĩnh đã bổ sung cho nhau. Hoắc Thanh Đồng trong Thư kiếm ân cừu lục là một người giỏi võ, một người chị biết che chở, một đứa con có hiếu, và là một người sẵn sàng bảo vệ cho lợi ích của những người thân của cô. Công chúa Hương Hương dù không biết võ thuật nhưng cô đóng vai trò quan trọng trong câu truyện. Cuối truyện, cô tỏ ra không chỉ xinh đẹp mà còn đủ thông minh đế biết được sự thèm muốn của Càn Long. Cô có lòng cam đảm để hi sinh chính mình để bảo vệ giá trị của bộ tộc và cảnh báo Trần Gia Lạc trước những âm mưu của Càn Long. Ân Tố Tố, Triệu MẫnChu Chỉ Nhược được miêu tả có sự can đảm, quyết tâm và thông minh bằng, nếu không nói là hơn các nhân vật nam khác trong Ỷ Thiên Đồ Long ký.

Các nữ nhân vật chính trong tác phẩm của Kim Dung gồm có:

  • Hương Hương công chúa: Thư kiếm ân cừu lục
  • Hoắc Thanh Đồng: Thư kiếm ân cừu lục
  • Lý Nguyên Chỉ: Thư kiếm ân cừu lục
  • Hạ Thanh Thanh: Bích huyết kiếm
  • A Cửu (Trường bình công chúa): Bích huyết kiếm
  • Hoàng Dung: Anh hùng xạ điêu
  • Tiểu long nữ: Thần điêu đại hiệp
  • Viên Tử Y: Phi hồ ngoại truyện
  • Trình Linh Tố: Phi hồ ngoại truyện
  • Miêu Nhược Lan: Tuyết sơn phi hồ
  • Ân Tố Tố: Ỷ Thiên Đồ Long ký
  • Triệu Mẫn: Ỷ Thiên Đồ Long ký
  • Tiểu Chiêu: Ỷ Thiên Đồ Long ký
  • Chu Chỉ Nhược: Ỷ Thiên Đồ Long ký
  • Thích Phương: Liên thành Quyết
  • Thủy Sinh: Liên thành Quyết
  • A Châu: Thiên long bát bộ
  • A Tử: Thiên long bát bộ
  • Vương Ngữ Yên: Thiên long bát bộ
  • Mộc Uyển Thanh: Thiên long bát bộ
  • Chung Linh: Thiên long bát bộ
  • Tiêu Trung Tuệ: Uyên ương đao
  • Lý Văn Tú: Bạch mã khiếu tây phong
  • Đinh Đang: Hiệp khách hành
  • A Tú: Hiệp khách hành
  • A Thanh: Việt Nữ kiếm
  • Nhậm Doanh Doanh: Tiếu ngạo giang hồ
  • Nhạc Linh San: Tiếu ngạo giang hồ
  • Nghi Lâm: Tiếu ngạo giang hồ
  • Song Nhi: Lộc Đỉnh ký
  • Tô Thuyên: Lộc Đỉnh ký
  • Tăng Nhu: Lộc Đỉnh ký
  • Phương Di: Lộc Đỉnh ký
  • Mộc Kiếm Bình: Lộc Đỉnh ký
  • Kiến Ninh công chúa: Lộc Đỉnh ký
  • A Kha: Lộc Đỉnh ký

[sửa] Ngũ tuyệt

"Thiên hạ ngũ tuyệt" (Võ Lâm Ngũ Bá) là năm nhân vật được coi như có võ công cao nhất trong Xạ điêu tam bộ khúc. Ở lần gặp thứ nhất Hoa Sơn luận kiếm (chuyện xảy ra trước bộ Anh hùng xạ điêu nhưng được nhắc lại) đã phân định Vương Trùng Dương là người võ công cao nhất. Ngũ tuyệt gồm có:

Ngoài ra, Lâm Triều AnhCừu Thiên Nhận cũng được coi trọng mặc dù vắng mặt trong cuộc Hoa Sơn luận kiếm thứ nhất.

Lần Hoa Sơn luận kiếm thứ hai, được kể cuối bộ Anh hùng xạ điêu, không phân thắng bại vì Âu Dương Phong đã bị tẩu hỏa nhập ma còn Cừu Thiên Nhận rút lui. Tuy vậy, Chu Bá Thông, sư đệ của Vương Trùng Dương có thể coi là người có võ công giỏi nhất tại thời điểm đó.

Ở lần Hoa Sơn luận kiếm thứ ba, được kể cuối bộ Thần điêu hiệp lữ, không còn Cừu Thiên Nhận và Kim Luân Pháp Vương vì đã chết. Hồng Thất Công và Âu Dương Phong cũng đã mất sau trận kịch đấu bất phân thắng bại. Kết cuộc, Chu Bá Thông, Quách TĩnhDương Quá thế chỗ Vương Trùng Dương, Hồng Thất Công và Âu Dương Phong trong danh sách ngũ tuyệt:

  • Chu Bá Thông ở trung tâm (Trung Ngoan Đồng)
  • Hoàng Dược Sư ở phương Đông (Đông Tà)
  • Dương Quá ở phương Tây (Tây Cuồng)
  • Nhất Đăng ở phương Nam (Nam Tăng)
  • Quách Tĩnh ở phương Bắc (Bắc Hiệp)

Nhất Đăng là pháp hiệu của Đoàn Trí Hưng sau khi thoái vị và trở thành hòa thượng.

[sửa] Độc Cô Cầu Bại

Độc Cô Cầu Bại là nhân vật độc nhất trong các tác phẩm của Kim Dung. Nhân vật này chưa bao giờ xuất hiện trong tác phẩm, nhưng có võ công tuyệt hảo. Chỉ có tên được nhắc đến trong Anh Hùng Xạ Điêu, Thần điêu đại hiệp, Tiếu ngạo giang hồ, Lộc Đỉnh Ký. Sau này, một số hãng phim cũng có xây dựng phim bộ từ nhân vật này.

Độc Cô Cầu Bại tuy không xuất hiện, nhưng những gì ông để lại cũng đủ làm nên một trường sóng gió. Như ba thanh kiếm giành cho Dương Quá, cộng với con chim khổng lồ đã giúp Dương Quá sáng tạo ra một pho võ công thượng thặng. Lệnh Hồ Xung qua Phong Thanh Dương học được võ công Độc Cô cửu kiếm mà kiếm pháp của y đã trở thành thiên hạ vô địch thủ (với tiêu chí là vô chiêu thắng hữu chiêu).

[sửa] Nhân vật lịch sử phỏng theo

Kim Dung đã phỏng theo nhiều nhân vật lịch sử vào các tác phẩm của mình. Ông tự do thêm các chi tiết hội thoại, hành động mà trong tiểu sử của những nhân vật này không đề cập đến. Ví dụ như Đà Lôi là con út của Thành Cát Tư Hãn xuất hiện là bạn thời thơ ấu của Quách Tĩnh; Vi Tiểu Bảo trở thành bạn của vua Khang Hy

[sửa] Chiêu thức

Chiêu thức cũng là một yếu tố quan trọng trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung. Có những chiêu thức tuy không nói ra nhưng hàm chứa một triết lý sống, ví dụ:

  • Chiêu Độc Cô cửu kiếm của Lệnh Hồ Xung trong Tiếu Ngạo Giang Hồ. Với tiêu chí vô chiêu thắng hữu chiêu, chỉ có tiến không có lùi. Nó cũng như bản tính của Lệnh Hồ Xung tính tình phóng đãng (vô chiêu) không muốn đi theo tập tục lễ giáo (hữu chiêu), làm việc gì cũng theo ý mình không cần phải e ngại (chỉ có tiến không có thoái).
  • Chiêu Hàng Long Thập Bát Chưởng của Cái Bang, là một môn võ công thuần cương, tấn công trực diện, nên chỉ có những người tâm địa ngay thẳng như Kiều Phong, Hồng Thất Công, Quách Tĩnh... là đạt tới đỉnh cao của nó.

Những chiêu thức nổi tiếng nhất trong truyện Kim Dung có thể kể đến:

  • Hàng Long thập bát chưởng là chưởng pháp lừng danh, chỉ truyền cho đệ tử Cái Bang từ 8 túi trở lên và lập nhiều công lớn.
  • Dịch Cân kinh là một rèn luyện nội công của phái Thiếu Lâm.
  • Thái cực quyền của Trương Tam Phong chưởng môn phái Võ Đang sáng tác.
  • Ảm nhiên tiêu hồn chưởng là môn võ công quái dị của Dương Quá.
  • Càn khôn đại nã di, bí kíp nội công thượng thặng của Minh Giáo.
  • Quỳ hoa bảo điển - Tịch tà kiếm phổ, là 1 loại võ công nhưng bị biến đổi thành 2 cách luyện, cả 2 cách luyện đều đòi hỏi người luyện phải tự thiến.
  • Đả cẩu bổng: môn võ công chỉ giành cho bang chủ Cái Bang.
  • Song thủ hỗ bát: chiêu thức quái đản của Chu Bá Thông, là thuật phân tâm sao cho 2 bàn tay có thể ra 2 chiêu khác nhau cùng 1 lúc.
  • Độc cô cửu kiếm: môn võ của Độc Cô Cầu Bại, được Phong Thanh Dương truyền lại cho Lệnh Hồ Xung.
  • Hấp tinh đại pháp, môn võ bị căm ghét nhất võ lâm, vì hút nội lực kẻ khác.
  • Lục mạch thần kiếm: môn võ của nước Đại Lý.
  • Lăng ba vi bộ: môn võ mà Đoàn Dự vô tình học được.

[sửa] Môn phái, bang hội

Nhiều môn phái, bang hội trong các tác phẩm của Kim Dung được nhắc lại nhiều lần. Có những phái có thật ngoài đời mặc dù các chi tiết đã được Kim Dung thêm nhiều. Các môn phái, bang hội, giáo phái hay gặp nhất trong các tác phẩm của Kim Dung là:

Những môn phái này chia ra hai phe chánh - tà thường xuyên đối chọi nhau, phe chính được kêu là Danh môn chính phái, phe tà bị gọi là Tà ma ngoại đạo. Về chất lượng của các bang, phái, trong truyện Kim Dung thường nhắc đến Thiếu Lâm, Cái Bang (mệnh danh là Thái Sơn và Bắc Đẩu trong võ lâm) và Minh Giáo, về võ công thì Thiếu Lâm là nhất, về bang hội thì Cái Bang mạnh nhất, còn về giáo phái thì Minh Giáo mạnh nhất. Tuy nhiên đọc hết các tác phẩm của ông thì ta thấy đó chỉ là cái hư danh.

[sửa] Thời biểu

Năm Tiểu thuyết
Thế kỉ 6 TCN Việt Nữ kiếm
Thế kỉ 11 Thiên long bát bộ
Thế kỉ 12 Anh hùng xạ điêu
Thế kỉ 13 Thần điêu đại hiệp
Thế kỉ 14 Ỷ thiên Đồ Long ký
Thế kỉ 15
Thế kỉ 16 Tiếu ngạo giang hồ1
Hiệp khách hành
Thế kỉ 17 Bích huyết kiếm
Lộc Đỉnh ký
Thế kỉ 18 Thư kiếm ân cừu lục
Phi hồ ngoại truyện
Tuyết sơn phi hồ

1 Tiếu ngạo giang hồ không nói rõ xảy ra vào thời gian nào; Kim Dung nói rằng ông cố tình bỏ ngỏ. Tuy vậy độc giả đã phát hiện ra rằng câu truyện có thể xảy ra vào thời Minh, bởi vì phái Võ Đang và Nga Mi (thành lập vào đầu triều Minh) xuất hiện nổi bật, và bởi vì người Mãn Châu không được đề cập. Trong vài bộ phim chuyển thể như Swordsman II với Lý Liên Kiệt đóng vai chính, câu truyện diễn ra vào thời vua Vạn Lịch, tức là cuối triều Minh, trước khi nhà Thanh xâm lấn.

[sửa] Chú thích, Xem thêm

  1. ^ [1]

[sửa] Phim ảnh

[sửa] Thư mục

  • Đỗ Long Vân, Vô Kỵ giữa chúng ta hay là hiện tượng Kim Dung, Sài Gòn: Nxb Trình Bày, 1967
  • Bửu Ý, "Kim Dung, Tạ Tốn và Ỷ Thiên Đồ Long", trong Tác giả thế kỷ 20, Sài Gòn: Nxb An Tiêm, 1967
  • Tạp chí Văn học nước ngoài, số 2/1998 (tác phẩm Tuyết sơn phi hồ và một số bài viết về Kim Dung)
  • Nhiều tác giả, Kim Dung, tác phẩm và dư luận, Trần Thức sưu tầm và tuyển chọn, Hà Nội: Nxb Văn học, 2001
  • Nguyễn Duy Chính, Đọc Kim Dung tìm hiểu văn hoá Trung Quốc, Tp.HCM: Nxb Trẻ, 2002
  • Huỳnh Ngọc Chiến, Lai rai chén rượu giang hồ, Hà Nội: Nxb Văn học, 2002
  • Kim Dung - Ikeda, Tìm kiếm một thế kỷ xán lạn-Đối thoại giữa Kim Dung và Ikeda, Lê Khánh Trường dịch, Hà Nội: Nxb Hội nhà văn, 2004

[sửa] Liên kết ngoài


Tác phẩm võ hiệp Kim Dung
14 tiểu thuyết
Phi hồ ngoại truyện Tiếu ngạo giang hồ
Tuyết sơn phi hồ Thư kiếm ân cừu lục
Liên thành quyết Thần điêu hiệp lữ
Thiên long bát bộ Hiệp khách hành
Xạ điêu anh hùng truyện Ỷ thiên Đồ long ký
Bạch mã khiếu tây phong Bích huyết kiếm
鹿 Lộc Đỉnh ký Uyên Ương đao
Truyện ngắn
越女劍 Việt nữ kiếm sửa


aa - ab - af - ak - als - am - an - ang - ar - arc - as - ast - av - ay - az - ba - bar - bat_smg - bcl - be - be_x_old - bg - bh - bi - bm - bn - bo - bpy - br - bs - bug - bxr - ca - cbk_zam - cdo - ce - ceb - ch - cho - chr - chy - co - cr - crh - cs - csb - cu - cv - cy - da - de - diq - dsb - dv - dz - ee - el - eml - en - eo - es - et - eu - ext - fa - ff - fi - fiu_vro - fj - fo - fr - frp - fur - fy - ga - gan - gd - gl - glk - gn - got - gu - gv - ha - hak - haw - he - hi - hif - ho - hr - hsb - ht - hu - hy - hz - ia - id - ie - ig - ii - ik - ilo - io - is - it - iu - ja - jbo - jv - ka - kaa - kab - kg - ki - kj - kk - kl - km - kn - ko - kr - ks - ksh - ku - kv - kw - ky - la - lad - lb - lbe - lg - li - lij - lmo - ln - lo - lt - lv - map_bms - mdf - mg - mh - mi - mk - ml - mn - mo - mr - mt - mus - my - myv - mzn - na - nah - nap - nds - nds_nl - ne - new - ng - nl - nn - no - nov - nrm - nv - ny - oc - om - or - os - pa - pag - pam - pap - pdc - pi - pih - pl - pms - ps - pt - qu - quality - rm - rmy - rn - ro - roa_rup - roa_tara - ru - rw - sa - sah - sc - scn - sco - sd - se - sg - sh - si - simple - sk - sl - sm - sn - so - sr - srn - ss - st - stq - su - sv - sw - szl - ta - te - tet - tg - th - ti - tk - tl - tlh - tn - to - tpi - tr - ts - tt - tum - tw - ty - udm - ug - uk - ur - uz - ve - vec - vi - vls - vo - wa - war - wo - wuu - xal - xh - yi - yo - za - zea - zh - zh_classical - zh_min_nan - zh_yue - zu -