See also ebooksgratis.com: no banners, no cookies, totally FREE.

CLASSICISTRANIERI HOME PAGE - YOUTUBE CHANNEL
Privacy Policy Cookie Policy Terms and Conditions
Nhà Tống – Wikipedia tiếng Việt

Nhà Tống

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Xem các nghĩa khác của từ này tại Tống.
Lịch sử Trung Quốc
Lịch sử Trung Quốc
CỔ ĐẠI
Tam Hoàng Ngũ Đế
Nhà Hạ 2205–1767 TCN
Nhà Thương 1766–1122 TCN
Nhà Chu 1122–256 TCN
  Nhà Tây Chu
  Nhà Đông Chu
    Xuân Thu
    Chiến Quốc
ĐẾ QUỐC
Nhà Tần 221 TCN –206 TCN
Nhà Hán 206 TCN–220 CN
  Nhà Tây Hán
  Nhà Tân
  Nhà Đông Hán
Tam Quốc 220–280
  Ngụy, Thục & Ngô
Nhà Tấn 265–420
  Nhà Tây Tấn
  Nhà Đông Tấn Ngũ Hồ thập lục quốc
304–439
Nam Bắc Triều 420–589
Nhà Tùy 581–619
Nhà Đường 618–907
  (Nhà Vũ Chu 690–705)
Ngũ Đại Thập Quốc
907–960
Nhà Liêu 907–1125
Nhà Tống 960–1279
  Nhà Bắc Tống Nhà Tây Hạ
  Nhà Nam Tống Nhà Kim
Nhà Nguyên 1271–1368
Nhà Minh 1368–1644
Nhà Thanh 1644–1911
HIỆN ĐẠI
Trung Hoa Dân Quốc 1912–1949
Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa

1949–ngày nay

Trung Hoa Dân Quốc
(tại Đài Loan)
1945-ngày nay

Triều đại Trung Quốc
Lịch sử quân sự Trung Quốc
Hộp này: xem  thảo luận  sửa

Nhà Tống (tiếng Trung:宋朝) là một triều đại cai trị ở Trung Quốc từ 960-1279. Việc thành lập nhà Tống đánh dấu sự tái thống nhất Trung Quốc lần đầu tiên kể từ khi nhà Đường (唐朝) sụp đổ năm 907. Những năm giữa giai đoạn đó, được gọi là thời kỳ Ngũ Đại Thập Quốc (五代十国), là khoảng thời gian chia rẽ giữa miền bắc và miền nam cũng như sự thay đổi nhanh chóng của các thể chế cầm quyền.

Trong thời nhà Tống, có rất nhiều mối đe doạ từ biên giới phía bắc của người Khất Đan (Khiết Đan) (契丹) từ nhà Liêu (遼朝), người Đảng Hạng từ triều Tây Hạ (西夏), và người Nữ Chân (女真) từ Nhà Kim (金朝). Thời đại nhà Tống cũng bị chia thành hai giai đoạn: Bắc Tống và Nam Tống. Bắc Tống (北宋, 960-1127) là giai đoạn khi thủ đô của họ ở thành phố Khai Phong (開封) phía bắc và triều đình kiểm soát toàn bộ Trung Hoa. Nam Tống (南宋, 1127-1279) để chỉ khoảng thời gian khi nhà Tống đã mất quyền kiểm soát phía bắc cho người Nữ Chân nhà Kim. Triều đình nhà Tống lui về phương nam sông Dương Tử (揚子江 hay 長江) và lập kinh đô ở Hàng Châu (杭州).

Nhà Kim bị người Mông Cổ chinh phục năm 1234, sau đó Mông Cổ kiểm soát toàn bộ phía bắc Trung Quốc và luôn đe doạ triều đình Nam Tống Một hiệp ước hoà bình vội vàng được lập ra, khi Hốt Tất Liệt nhận được tin về cái chết của Mông Ca (còn gọi là Mông Kha), vua cai trị Mông Cổ. Ông quay về nước để chiếm ngôi báu từ tay các đối thủ, để nhà Tống yên ổn trong một thời gian ngắn. Nhà Nguyên (元朝) của người Mông Cổ được thành lập năm 1271, và cuối cùng chinh phục nhà Tống năm 1279, một lần nữa thống nhất Trung Quốc, lần này là một phần của Đế chế Mông Cổ rộng lớn. Sau này đế chế Mông Cổ được gọi là nhà Nguyên.

Mục lục

[sửa] Nghệ thuật, Văn hoá và Kinh tế

Bắc Tống năm 1111.
Bắc Tống năm 1111.
Nam Tống năm 1142.
Nam Tống năm 1142.

Người sáng lập ra nhà Tống, Triệu Khuông Dẫn (趙匡胤) cũng được gọi là Tống Thái Tổ (宋太祖), đã xây dựng nên một hệ thống quan lại trung ương tập quyền có hiệu quả với các quan chức có học thức xuất phát từ bình dân. Các lãnh chúa quân phiệt địa phương và hệ thống quan lại riêng của họ bị thay thế bằng cách quan chức do trung ương chỉ định. Hệ thống cai trị dân sự này dẫn tới sự tập trung quyền lực to lớn trong tay hoàng đế và triều đình trung ương mạnh hơn nhiều so với các triều đại trước đó.

Nhà Tống đã phát triển nhiều thành phố lớn không chỉ với mục đích hành chính mà còn đóng vai trò trung tâm thương mại, công nghiệp và hàng hải. Tầng lớp quan lại học giả - còn được gọi chung là quân tử - sống tại các địa phương cùng với các chủ tiệm, thợ thủ công và nhà buôn. Một nhóm bình dân giàu có - tầng lớp buôn bán - bắt đầu nổi lên khi kỹ thuật in phát triển dẫn tới mở rộng giáo dục, tăng trưởng kinh tế tư nhân, và nền kinh tế thị trường bắt đầu kết nối các tỉnh ven biển với vùng trung tâm. Việc sở hữu đất đai và tiến thân bằng con đường quan lại không còn là những phương tiện duy nhất để làm giàu và tăng uy thế. Sự phát triển của tiền giấy và một hệ thống thuế thống nhất đồng nghĩa với sự phát triển của một hệ thống thị trường toàn quốc thực sự.

Cùng với nó là sự khởi đầu của cái có thể coi là cuộc cách mạng công nghiệp Trung Quốc. Ví dụ, nhà sử học Robert Hartwell đã ước tính rằng sản lượng thép trên đầu người đã tăng gấp 6 lần trong giai đoạn từ năm 806 tới năm 1078, có nghĩa, tới năm 1078 Trung Quốc sản xuất 125.000 tấn thép một năm, và lượng tiêu thụ trên đầu người đạt khoảng 1,5 kg một năm (so với 0,5 kg ở Châu Âu). Thép được dùng để sản xuất cày, búa, kim, ghim, chũm choẹ v.v với số lượng lớn, cho thị trường nội địa và để buôn bán với thế giới bên ngoài, khi ấy cũng đang phát triển mạnh mẽ. Đồng thời Trung Quốc cũng phát minh ra thuốc súng, phát triển súng thần công, súng phun lửa (như kiểu người Byzantin đã phát minh ra), kỹ thuật in ấn khiến tăng số người biết đọc, viết cũng như các vật tư phục vụ ngành in. Điều này đồng nghĩa với việc các bậc cha mẹ khuyến khích con cái đi học để biết đọc, biết viết để có cơ hội tham dự các kỳ khoa cử (科舉) nhằm trở thành một quan chức trong hệ thống quan lại dân sự triều đình. Nhờ những phát minh và cải tiến đó (cùng với cuộc cách mạng nông nghiệp đang diễn ra) Trung Quốc đã phát triển một vài thành phố lớn nhất thế giới thời kỳ ấy. Ví dụ Hàng Châu (杭州) từng có khoảng 500.000 người: lớn hơn rất nhiều so với bất kỳ thành phố châu Âu nào - ở Tây Âu tới năm 1200, chỉ ParisVenice có dân số trên 100.000 người, dù cho Constantinople đã có tới 300.000 dân.

Ước tính thông dụng thứ hai cho rằng GDP trên thu nhập đầu người với sức mua tương đương ở thời nhà Tống đạt hơn $600 theo đôla quốc tế năm 1990[cần chú thích]. Tây Âu có thu nhập trên đầu người đạt khoảng $550 năm 1000, thấp hơn khá nhiều[cần chú thích]. Tây Âu bắt đầu có mức thu nhập trên đầu người cao hơn một chút khi Trung Quốc bắt đầu suy sụp sau năm 1300[cần chú thích]. Tới thế kỷ 16, thu nhập trên đầu người của châu Âu đã vượt rất xa[cần chú thích].

Về mặt văn hoá, nhà Tống có mức phát triển cao hơn nhiều so với những thế kỷ trước đó, không chỉ gồm những phát triển đã có từ thời nhà Đường (唐朝) như quan niệm về người thông thạo bách nghệ, gồm cả tính chất học giả, nhà thơ, hoạ sĩ và quan lại, mà còn cả về việc ghi chép sử, hoạ, thư pháp (書法), và cả sứ tráng men. Các học giả nhà Tống tìm cách giải nghĩa mọi vấn đề triết học và chính trị trong những tác phẩm Khổng giáo (儒教) cổ điển. Việc này khiến sự quan tâm tới các tư tưởng Khổng giáo và xã hội thời cổ lại tăng lên, trùng khớp với giai đoạn giảm sút ảnh hưởng Phật giáo (佛教), mà người Trung Quốc coi là ngoại lai và không mang lại nhiều tư tưởng hành động thực tế chính trị cũng như cách giải quyết các vấn đề trần thế.

Tranh vẽ Trung Hoa Thế kỷ XII mô tả những người lính Thiết Kỵ binh đời Tống
Tranh vẽ Trung Hoa Thế kỷ XII mô tả những người lính Thiết Kỵ binh đời Tống

Các nhà lý học (理學) thời Tống đã phát hiện ra một số sự thuần khiết bên trong các văn bản kinh điển cổ, viết bình luận về chúng. Người nổi tiếng nhất trong số họ là Chu Hy (朱熹, 1130-1200), sự tổng hợp tư tưởng Khổng giáo với Phật giáo và Đạo giáo (道教) của ông cùng với các tư tưởng khác đã trở thành hệ tư tưởng chính thức của triều đình từ cuối thời nhà Tống tới cuối thế kỷ 19. Vì được kết hợp với khoa cử (科舉), triết lý Chu Hy liên quan tới tín điều chính thức cứng nhắc, bắt buộc sự tuân phục mù quáng từ một phía của dân chúng đối với nhà cai trị, con với cha, vợ với chồng, em với anh. Hậu quả làm kìm hãm sự phát triển xã hội của nước Trung Hoa tiền hiện đại, dẫn tới sự phát triển chậm chạp của nhiều thế hệ chính trị xá hội và sự ổn định tư tưởng dẫn tới sự trì trệ văn hoá cho tới tận thế kỷ 19. Học thuyết lý học Khổng giáo mới cũng đóng vai trò quyết định trong đời sống trí thức tại Triều Tiên, Việt Nam, và Nhật Bản.

[sửa] Bắc Tống suy vong

Sau gần 100 năm tồn tại đầu tiên, nhà Tống dần bị suy yếu bởi sự uy hiếp của 2 quốc gia phía bắc và tây bắc là LiêuTây Hạ. Nhà Kim sau khi phối hợp cùng Bắc Tống diệt Liêu đã tấn công dần dần Tống và vào ngày 9 tháng 1 năm 1127 lực lượng nhà Kim đã chiếm Khai Phong, thủ đô của triều đại Bắc Tống, bắt giữ cả hai vua nhà Tống là Tống Khâm Tông, và cha của ông là vua Tống Huy Tông, là người đã từ bỏ ngôi báu do sợ hãi lực lượng nhà Kim. Sau khi Khai Phong thất thủ, lực lượng nhà Tống dưới sự lãnh đạo của nhà Nam Tống kế tiếp vẫn tiếp tục chiến đấu với nhà Kim trong hơn mười năm tiếp theo, cuối cùng đã dẫn đến ký kết hiệp ước hòa bình năm 1141, và cắt toàn bộ miền bắc Trung Quốc cho nhà Kim năm 1142 để đổi lấy hòa bình và chuyển kinh đô xuống miền nam ở Hàng Châu

Bắc Tống là một trong những triều đại yếu ớt. Về quân sự, họ liên lục bị thua trong các cuộc chiến tranh với Liêu, Tây Hạ, Kim ở phía bắc và Đại Việt ở phía nam, một số sử gia cho rằng Bắc Tống là triều đại yếu nhất trong các triều đại lớn của Trung Hoa như Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh

[sửa] Sự sụp đổ của Nam Tống

Năm 1276 triều đình Nam Tống bỏ chạy bằng thuyền tới Quảng Đông (廣東) trước sự xâm lược của Mông Cổ, để Tống Cung Đế (宋恭帝) lại phía sau. Vai trò lãnh đạo kháng chiến được trao cho hai hoàng tử trẻ, là em của Cung Đế. Người lớn tuổi hơn, Triệu Thị (趙昰), mới 9 tuổi, và được phong làm hoàng đế Đoan Tông (端宗); vào năm 1277, triều đình lại bỏ chạy tới Ngân Khoáng Loan (銀礦灣 hay Mai Oa, 梅窩) ở Đại Tự Sơn (大嶼山) và sau này ở khu vực hiện nay là Cửu Long, Hồng Kông (xem thêm Tống Vương Đài). Người anh lớn ốm chết, người em là Vệ Vương Triệu Bính (趙昺), mới 7 tuổi, lên kế vị. Ngày 19 tháng 3, 1279 quân đội Tống bị đánh bại trong trận chiến cuối cùng, Nhai Sơn hải chiến (崖山海戰), chống lại người Mông Cổ ở đồng bằng sông Châu Giang (珠江三角洲). Một vị đại thần là Lục Tú Phu đã ôm vị hoàng đế nhảy xuống biển tự vẫn. (Xem: Tống Vương Đài).

[sửa] Các Hoàng đế nhà Tống

Miếu hiệu
廟號
Thuỵ hiệu
諡號
Họ, tên Trị vì Niên hiệu 年號 và thời gian sử dụng
Bắc Tống, 960-1127
Thái Tổ
(太祖)
Đại Hiếu
(大孝)
Triệu Khuông Dẫn
(趙匡胤)
960-976 Kiến Long (建隆) 960-963
Càn Đức (乾德) 963-968
Khai Bảo (開寶) 968-976
Thái Tông
(太宗)
Văn Võ
(文武)
Triệu Khuông Nghĩa
(趙匡義)
hay Triệu Quang Nghĩa
(趙光義)
976-997 Thái Bình Hưng Quốc (太平興國) 976-984
Ung Hi (雍熙) 984-987
Đoan Củng (端拱) 988-989
Thuần Hoá (淳化) 990-994
Chí Đạo (至道) 995-997
Chân Tông
(真宗)
Nguyên Hiếu
(元孝)
Triệu Hằng
(趙恆)
997-1022 Hàm Bình (咸平) 998-1003
Cảnh Đức (景德) 1004-1007
Đại Trung Tường Phù (大中祥符) 1008-1016
Thiên Hi (天禧) hay Nguyên Hi (元禧) 1017-1021
Càn Hưng (乾興) 1022
Nhân Tông
(仁宗)
Minh Hiếu
(明孝)
Triệu Trinh
(趙禎)
1022-1063 Thiên Thánh (天聖) 1023-1032
Minh Đạo (明道) 1032-1033
Cảnh Hữu (景祐) 1034-1038
Bảo Nguyên (寶元) 1038-1040
Khang Định (康定) 1040-1041
Khánh Lịch (慶曆) 1041-1048
Hoàng Hữu (皇祐) 1049-1054
Chí Hoà (至和) 1054-1056
Gia Hữu (嘉祐) 1056-1063
Anh Tông
(英宗)
Tuyên Hiếu
(宣孝)
Triệu Thự
(趙曙)
1063-1067 Trì Bình (治平) 1064-1067
Thần Tông
(神宗)
Thánh Hiếu
(聖孝)
Triệu Húc
(趙頊)
1067-1085 Hi Ninh (熙寧) 1068-1077
Nguyên Phong (元豐) 1078-1085
Triết Tông
(哲宗)
Chiêu Hiếu
(昭孝)
Triệu Hú
(趙煦)
1085-1100 Nguyên Hữu (元祐) 1086-1094
Thiệu Thánh (紹聖) 1094-1098
Nguyên Phù (元符) 1098-1100
Huy Tông
(徽宗)
Hiển Hiếu
(顯孝)
Triệu Cát
(趙佶)
1100-1125 Kiến Trung Tĩnh Quốc (建中靖國) 1101
Sùng Ninh (崇寧) 1102-1106
Đại Quán (大觀) 1107-1110
Chính Hoà (政和) 1111-1118
Trọng Hoà (重和) 1118-1119
Tuyên Hoà (宣和) 1119-1125
Khâm Tông
(欽宗)
Nhân Hiếu
(仁孝)
Triệu Hoàn
(趙桓)
1126-1127 Tĩnh Khang (靖康) 1125-1127
Nam Tống, 1127- 1279
Cao Tông
(高宗)
Hiến Hiếu
(憲孝)
Triệu Cấu
(趙構)
1127-1162 Tĩnh Viêm (靖炎) hay Kiến Viêm (建炎) 1127-1130
Thiệu Hưng (紹興) 1131-1162
Hiếu Tông
(孝宗)
Thành Hiếu
(成孝)
Triệu Thận
(趙昚)
1162-1189 Long Hưng (隆興) 1163-1164
Càn Đạo (乾道) 1165-1173
Thuần Hi (淳熙) 1174-1189
Quang Tông
(光宗)
Từ Hiếu
(慈孝)
Triệu Đôn
(趙惇)
1189-1194 Thiệu Hi (紹熙) 1190-1194
Ninh Tông
(寧宗)
Cung Hiếu
(恭孝)
Triệu Khoách
(趙擴)
1194-1224 Khánh Nguyên (慶元) 1195-1200
Gia Thái (嘉泰) 1201-1204
Khai Hi (開禧) 1205-1207
Gia Định (嘉定) 1208-1224
Lý Tông
(理宗)
An Hiếu
(安孝)
Triệu Quân
(趙昀)
1224-1264 Bảo Khánh (寶慶) 1225-1227
Thiệu Định (紹定) 1228-1233
Đoan Bình (端平) 1234-1236
Gia Hi (嘉熙) 1237-1240
Thuần Hữu (淳祐) 1241-1252
Bảo Hữu (寶祐) 1253-1258
Khai Khánh (開慶) 1259
Cảnh Định (景定) 1260-1264
Độ Tông
(度宗)
Cảnh Hiếu
(景孝)
Triệu Kỳ
(趙祺)
1264-1274 Hàm Thuần (咸淳) 1265-1274
Cung Tông
(恭宗)
Hiếu Cung
(孝恭)
Triệu Hiển
(趙顯)
1274-1276 Đức Hữu (德祐) 1275-1276
Đoan Tông
(端宗)
Mẫn Hiếu
(愍孝)
Triệu Thị
(趙昰)
1276-1278 Cảnh Viêm (景炎) 1276-1278
không có Đế Bính
(帝昺)
hay Vệ Vương
(衛王)
Triệu Bính
(趙昺)
1278-1279 Tường Hưng (祥興) 1278-1279

[sửa] Xem thêm



aa - ab - af - ak - als - am - an - ang - ar - arc - as - ast - av - ay - az - ba - bar - bat_smg - bcl - be - be_x_old - bg - bh - bi - bm - bn - bo - bpy - br - bs - bug - bxr - ca - cbk_zam - cdo - ce - ceb - ch - cho - chr - chy - co - cr - crh - cs - csb - cu - cv - cy - da - de - diq - dsb - dv - dz - ee - el - eml - en - eo - es - et - eu - ext - fa - ff - fi - fiu_vro - fj - fo - fr - frp - fur - fy - ga - gan - gd - gl - glk - gn - got - gu - gv - ha - hak - haw - he - hi - hif - ho - hr - hsb - ht - hu - hy - hz - ia - id - ie - ig - ii - ik - ilo - io - is - it - iu - ja - jbo - jv - ka - kaa - kab - kg - ki - kj - kk - kl - km - kn - ko - kr - ks - ksh - ku - kv - kw - ky - la - lad - lb - lbe - lg - li - lij - lmo - ln - lo - lt - lv - map_bms - mdf - mg - mh - mi - mk - ml - mn - mo - mr - mt - mus - my - myv - mzn - na - nah - nap - nds - nds_nl - ne - new - ng - nl - nn - no - nov - nrm - nv - ny - oc - om - or - os - pa - pag - pam - pap - pdc - pi - pih - pl - pms - ps - pt - qu - quality - rm - rmy - rn - ro - roa_rup - roa_tara - ru - rw - sa - sah - sc - scn - sco - sd - se - sg - sh - si - simple - sk - sl - sm - sn - so - sr - srn - ss - st - stq - su - sv - sw - szl - ta - te - tet - tg - th - ti - tk - tl - tlh - tn - to - tpi - tr - ts - tt - tum - tw - ty - udm - ug - uk - ur - uz - ve - vec - vi - vls - vo - wa - war - wo - wuu - xal - xh - yi - yo - za - zea - zh - zh_classical - zh_min_nan - zh_yue - zu -