Kế hoạch Staley-Taylor
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Loạt bài Chiến tranh Việt Nam |
---|
Giai đoạn 1954–1959 |
Miền Bắc – Miền Nam |
Thuyết Domino |
Giai đoạn 1960–1965 |
Diễn biến Quốc tế – Miền Nam |
Kế hoạch Staley-Taylor |
Sự kiện Phật Đản, 1963 |
Đảo chính Chính phủ Ngô Đình Diệm |
Giai đoạn 1965–1968 |
Miền Bắc Các chiến dịch Tìm-Diệt Chiến dịch Phượng Hoàng |
Diễn biến Quốc tế |
Tết Mậu Thân, 1968 |
Giai đoạn 1968–1972 |
Diễn biến Quốc tế |
Việt Nam hoá chiến tranh |
Chiến dịch: Lam Sơn 719 – Hè 1972 – Linebacker II |
Hiệp định Paris |
Giai đoạn 1973–1975 |
Chiến dịch: Tây Nguyên – Huế - Đà Nẵng |
Xuân 1975 – Hồ Chí Minh |
Sự kiện 30 tháng 4, 1975 |
Hậu quả chiến tranh |
Chất độc da cam |
Thuyền nhân |
sửa tiêu bản |
Staley-Taylor là tên một kế hoạch thực thi chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa trong Chiến tranh Việt Nam. Kế hoạch này được công bố tháng 5 năm 1961, mang tên hai người soạn thảo là nhà kinh tế học Eugene Staley của Viện nghiên cứu Standford - đại học Stanford và Đại tướng Maxwell D. Taylor. Theo tiến độ, kế hoạch được triển khai trong 4 năm (1961-1965). Nội dung của nó là “bình định Miền Nam” trong vòng 18 tháng, từ đó đảm bảo cho quân đội Việt Nam Cộng hòa thế chủ động trên chiến trường Miền Nam. Kế hoạch bao gồm 3 biện pháp chiến lược:
- Một là, tăng cường sức mạnh quân đội VNCH, sử dụng nhiều máy bay, xe tăng để nhanh chóng tiêu diệt các lực lượng vũ trang cách mạng, sử dụng cố vấn Mỹ trong các đơn vị chiến đấu.
- Hai là, giữ vững thành thị, đồng thời dập tắt cách mạng ở nông thôn bằng "bình định" và lập "ấp chiến lược".
- Ba là, ra sức ngăn chặn biên giới kiểm soát ven biển, cắt đứt nguồn chi viện từ miền Bắc vào, cô lập cách mạng miền Nam[1].
Tuy vậy, nó đã bị phá sản từ năm 1963 với các sự kiện trận Ấp Bắc, Đảo chính chính phủ Ngô Đình Diệm, các “ấp chiến lược” không được thực hiện theo như kế hoạch ban đầu. Mặc dù không tuyên bố, kế hoạch chính thức chấm dứt khi các đơn vị lính thủy đánh bộ Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng tháng 5 năm 1965 để trực tiếp tham chiến tại Miền Nam Việt Nam.
[sửa] Hình thành
Thời điểm thập niên 1960, Hoa Kỳ thực hiện chính sách “phản ứng linh hoạt”, không gây chiến với Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa nhưng dùng chiến tranh dưới mức thông thường đối phó với xu hướng cộng sản ở các nước mới giành độc lập.
Có một quan niệm mới đang hình thành ở Mỹ lúc ấy là phải nhìn nhận Nam Việt Nam như là một trọng điểm của toàn bộ quyền lợi của Mỹ ở Đông Nam Á. Chính vì thế trong năm 1961 các phái đoàn nghiên cứu của Mỹ tới tấp bay sang Nam Việt Nam: Phái đoàn của phó tổng thống Mỹ Johnson đã đến Sài Gòn tháng 5 năm 1961, phái đoàn của tiến sĩ kinh tế Eugene Staley thuộc Viện nghiên cứu Stanford đến Sài Gòn tháng 6 năm 1961, phái đoàn của Maxwell D. Taylor và Walt Whitman Rostow trong Bộ quốc phòng Mỹ đến Nam Việt Nam tháng 10/1961..... Kết quả là Nam Việt Nam sẽ là nơi thí điểm điển hình loại chiến tranh của chiến lược toàn cầu "Phản ứng linh hoạt" vừa ra đời[2].
Kế hoạch Staley-Taylor được công bố tháng 5 năm 1961 gồm 3 giai đoạn:
- Giai đoạn 1 thực hiện từ giữa năm 1961, nội dung chủ yếu là bình định miền Nam bằng biện pháp Ấp chiến lược.
- Giai đoạn 2 thực hiện từ đầu năm 1963, khôi phục kinh tế, tăng cường lực lượng quân đội, hoàn thành công cuộc bình định.
- Giai đoạn 3 thực hiện đến cuối năm 1965, phát triển kinh tế, ổn định miền Nam và kết thúc chiến tranh.
Kế hoạch được mở đầu và có ý nghĩa quyết định là ở giai đoạn 1 với hai biện pháp chiến lược là:
- Tăng nhanh lực lượng và khả năng chiến đấu của quân đội Việt Nam Cộng hòa. Quân lực Việt Nam Cộng hòa là xương sống của cuộc chiến tranh theo công thức: Quân đội VNCH + vũ khí trang bị của Mỹ + cố vấn Mỹ.
- Thực hiện cho được quốc sách Ấp chiến lược. Đó vừa là mục tiêu cơ bản, biện pháp chiến lược, vừa là kế sách trước mắt và lâu dài để giành thắng lợi trong chiến tranh ở Việt Nam[2].
Nội dung của kế hoạch là bình định tình hình Miền Nam sau sự kiện đồng khởi trong vòng 18 tháng. Quân đội Việt Nam Cộng hòa dưới sự giúp đỡ của cố vấn quân sự Mỹ, viện trợ vũ khí của Hoa Kỳ và hỏa lực quân đội Hoa Kỳ sẽ đảm đương vai trò kiểm soát Miền Nam Việt Nam. Các ấp chiến lược được dựng để quản lý dân chúng, không cho họ tiếp xúc với Việt Cộng, từ đó bứt Việt Cộng ra khỏi gốc rễ của họ là quần chúng nhân dân.
[sửa] Triển khai và phá sản
Quân đội Việt Nam cộng hòa phát triển rất nhanh dưới kế hoạch này, trong vòng 18 tháng kể từ khi thực hiện:
- quân đội có 354 ngàn quân trong đó 200 ngàn là quân chủ lực được trang bị hiện đại.
- 257 máy bay chiến đấu
- 346 xe thiết giáp
- 2.630 cố vấn Mỹ hoạt động trong quân đội VNCH và 8.280 binh sĩ Mỹ thuộc các lực lượng đặc nhiệm.
Đầu năm 1962, Bộ tư lệnh quân sự Mỹ ở Việt Nam (MACV - Military Assistance Command, Vietnam) được thành lập do Đại tướng Paul Harkins đứng đầu, thay thế cho Cơ quan viện trợ quân sự (MAAG - Military Assistance Advisory Group) của Trung tướng Lionel C. McGarr. Đến cuối năm 1962 đã có gần 4.000 cuộc hành quân càn quét phục vụ cho chương trình ấp chiến lược, trong đó có nhiều cuộc càn quét quy mô lớn như "chiến dịch mặt trời mọc", "chiến dịch Bình Tây", "chiến dịch Sao mai", "chiến dịch Thu Đông"... Mục tiêu 17.000 ấp chiến lược với 10.000.000 dân được thực hiện với ưu tiên số 1 và là quốc sách xây dựng quốc gia, năm 1962 đã có 4.248 ấp hình thành, đến cuối năm 1962 đầu năm 1963 đã có 9.095 ấp được xây dựng gom giữ khoảng 8.000.000 dân[2].
Kế hoạch này bị phía Việt Cộng sao chụp, thu thập được đầy đủ ngay sau phong trào Đồng khởi, từ đó có các biện pháp đối phó[3].
Sau các trận đụng độ với quân giải phóng miền nam là trận Ấp Bắc (tháng 1 năm 1963), trận Bình Giã (12 năm 1964), năng lực chiến đấu của quân lực Việt Nam Cộng hòa cho thấy chưa đủ để thực hiện công cuộc “bình định”. Như phát biểu của Bí thư thứ nhất Đảng Lao động Việt Nam lúc đó, Lê Duẩn thì “Mỹ thấy không thể thắng được ta trong chiến tranh đặc biệt”[4]. Bên cạnh đó, các ấp chiến lược – biện pháp xương sống để li khai Việt cộng với dân chúng không thực hiện đúng như đề ra: 2.895 trong số 6.164 ấp bị phá hoàn toàn, số còn lại bị phá đi, lập lại cả 5.000 lần[1].
Sau sự kiện chính phủ của tổng thống Ngô Đình Diệm bị lật đổ, từ tháng 11 năm 1963 đến tháng 6 năm 1965, miền nam có hàng chục cuộc đảo chính, chỉnh lý thanh trừng lẫn nhau. Đại sứ Hoa Kỳ khi đó là Taylor phải phát biểu với các tướng lĩnh VNCH: “Người Mỹ chúng tôi chán ngấy về những cuộc đảo chính này rồi. Từ nay, người Mỹ chúng tôi không thể nào ủng hộ các ông nữa nếu như các ông cứ gây ra những chuyện như vậy”[4].
Đến đây, kế hoạch Staley-Taylor đã không còn hiệu lực. Ngày 8 tháng 3 năm 1965, khi những đơn vị lính thủy đánh bộ Mỹ (3.500 lính) đổ quân xuống Đà Nẵng[5], kế hoạch Staley-Taylor chính thức chấm dứt. Chiến tranh Việt Nam bước sang giai đoạn mới, giai đoạn lính Mỹ trực tiếp tham chiến ở Việt Nam và thực hiện Chiến lược Tìm và diệt.
[sửa] Ghi chú
- ^ a b http://www.avsnonline.net/library/ebooks/vn/lichsu/lsvn/lsvn_tchd/hdai.htm
- ^ a b c http://www.hochiminhcity.gov.vn/left/gioi_thieu/lich_su_van_hoa/lich_su/tp_chung_nhan_cua_dong_chay_ls/khang_chien_chong_my/taylo.htm?left_menu=1
- ^ http://www.vnmedia.vn/print.asp?newsid=66921
- ^ a b http://tiengiangdost.gov.vn/tsan/ndung_tsan.aspx?ma=50
- ^ http://www.tnvn.gov.vn/Upload/Newspaper/2006/2006_N36_B_OK.pdf