See also ebooksgratis.com: no banners, no cookies, totally FREE.

CLASSICISTRANIERI HOME PAGE - YOUTUBE CHANNEL
Privacy Policy Cookie Policy Terms and Conditions
Chủ nghĩa cộng sản – Wikipedia tiếng Việt

Chủ nghĩa cộng sản

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Chủ nghĩa cộng sản

Lịch sử chủ nghĩa Cộng sản


Các trường phái Cộng sản
Chủ nghĩa Marx · Chủ nghĩa Lenin
Chủ nghĩa Trotsky · Chủ nghĩa Mao


Đảng cộng sản
Cộng sản Quốc tế
Phong trào Cộng sản Thế giới
Cách mạng cộng sản
Cách mạng thế giới


Các nhà nước cộng sản
Liên bang Xô-viết
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
Cuba · Việt Nam
Lào · Bắc Triều Tiên


Các chủ đề liên quan
Chủ nghĩa Xã hội
Chủ nghĩa Kinh tế Kế hoạch
Chủ nghĩa Marx-Lenin
Chủ nghĩa Stalin
Chủ nghĩa Cộng sản Tây Âu
Chủ nghĩa Cộng sản cánh tả
Chủ nghĩa Cộng sản vô chính phủ
Cánh tả kiểu mới
Chủ nghĩa chống cộng sản

sửa đổi


Bài này nói về chủ nghĩa cộng sản như một hình thái xã hội và như một phong trào chính trị. Xin xem bài hệ thống xã hội chủ nghĩa, đảng cộng sảnchủ nghĩa xã hội để tìm hiểu thêm.

Chủ nghĩa cộng sản là một khái niệm rộng cần phải được hiểu như một tổng hợp các lý luận (chính trị, kinh tế, xã hội), tư tưởng, tâm lý và thực tế thể hiện, các hình thức tồn tại... của một phong trào xã hội rộng lớn - bắt đầu từ thế kỷ 19, nở rộ và bắt đầu suy tàn trong thế kỷ 20, và chết dần trong thế kỷ 21 - nhằm xóa bỏ hình thái kinh tế-xã hội của chủ nghĩa tư bản để xây dựng một xã hội không giai cấp, không có quyền tư hữu đối với phương tiện sản xuất, mà trong đó mọi người là bình đẳng, không có hiện tượng "người bóc lột người" và tiến tới sự xóa bỏ nhà nước trong một tương lai "thế giới đại đồng" khi người với người là bạn, thương yêu lẫn nhau và tại đó năng suất lao động tăng lên rất cao, của cải làm ra đồi dào tới mức phân phối của cải theo nguyên tắc: "Làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu". Theo như lý luận của các nhà kinh điển của chủ nghĩa này thì chủ nghĩa xã hội là giai đoạn đầu tiên của chủ nghĩa cộng sản, là giai đoạn chuyển tiếp đi lên chủ nghĩa cộng sản mà ở đó vẫn còn nhà nước để lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Nguyên tắc phân phối của cải trong chủ nghĩa xã hội là "Làm theo năng lực, hưởng theo lao động".

Ý tưởng ban đầu của chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa xã hội là chủ nghĩa nhân đạo, là phương tiện để giải phóng con người và xã hội. Vì lý tưởng nhân đạo của nó, chủ nghĩa này đã thu hút được sự chú ý của các tầng lớp quần chúng của thế giới trong thế kỷ 20, tạo nên một phong trào xã hội to lớn mà cuộc đấu tranh của nó là một nhân tố chủ đạo trong lịch sử loài người trong thế kỷ 20.

Mặt khác, lý thuyết lý tưởng hoá về chủ nghĩa sộng sản và chủ nghĩa xã hội là không hoàn chỉnh, rất sơ sài so với tính chất đa dạng của cuộc sống và thậm chí sai lầm nghiêm trọng nên khi ứng dụng vào cuộc sống thực tế, đã gặp những khó khăn liên tiếp khó vượt qua. Để vượt qua các khó khăn đó những người theo chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa xã hội đã đặt chủ nghĩa của mình là trên hết [cần dẫn chứng], bắt xã hội phải chịu các hy sinh ngày càng lớn hơn để duy trì lý tưởng. [cần dẫn chứng] Đến lúc đó thì lý tưởng cộng sản đã biến chất từ phương tiện để trở thành mục đích tự thân và không còn tính chất nhân đạo nữa. [cần dẫn chứng] Sự biến dạng đã phát sinh những bất công và bất bình đẳng còn ghê gớm hơn rất nhiều so với những cái xấu của chủ nghĩa tư bản mà nó muốn tránh. [cần dẫn chứng]

Cuộc đấu tranh giữa hai hình thái "tư bản" và "chủ nghĩa xã hội" là cuộc đấu tranh khốc liệt của nhân loại trong thế kỷ 20. Ban đầu vì sự mới mẻ của ý tưởng và vì những yếu tố chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học kỹ thuật đặc trưng của thời kỳ đó mà chủ nghĩa xã hội đã thắng thế trên phạm vi lớn trên toàn cầu. Cuộc đấu tranh của hai phe là nguyên nhân chính của các sự kiện trên thế giới. Trong quá trình phát triển của mình, chủ nghĩa tư bản đã thích nghi được với những thách thức của thời đại và đã vượt qua được đối thủ và giành được quyền tồn tại. Chủ nghĩa xã hội (và chủ nghĩa cộng sản), do những điểm yếu chí mạng không thể khắc phục được của mình [cần dẫn chứng], đã mất hết sức quyến rũ và bị xã hội từ bỏ. [cần dẫn chứng] Bắt đầu từ thập niên 1990 các nước xã hội chủ nghĩa đã âm thầm loại bỏ chủ nghĩa cộng sản [cần dẫn chứng] để theo một vài đường lối phát triển của chủ nghĩa tư bản, mặc dù vẫn còn danh xưng và quốc chế theo hình thức chủ nghĩa cộng sản.

Mục lục

[sửa] Ý nghĩa lịch sử của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản

  • Chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa xã hội đã có một vai trò rất to lớn trong tiến trình phát triển của tri thức nhân loại: vai trò của một cuộc thí nghiệm xã hội lớn lao. Sau cuộc thí nghiệm này nhân loại đã thu được các kinh nghiệm và tri thức cực kỳ to lớn; đã từ bỏ được sự "lãng mạn cách mạng" và các kinh nghiệm xử lý với các thách thức lớn của xã hội. Các giai tầng xã hội đã không còn dễ bị kích động bởi các ý tưởng có tính cực đoan, xã hội hướng đến cách giải quyết các mâu thuẫn bằng con đường phi bạo lực. Tuy phe xã hội chủ nghĩa thất bại, tan rã nhưng những bài học xương máu của sự thất bại toàn diện này đem lại cho nhân loại một cái nhìn sâu rộng hơn về chủ nghĩa cộng sản.
  • Lý tưởng của chủ nghĩa cộng sản là đối trọng để chủ nghĩa tư bản tự điều chỉnh, học hỏi để xây dựng một xã hội công bằng hơn, dân chủ hơn, ổn định hơn và trở nên tốt đẹp hơn để được xã hội loài người chấp nhận. Từ chủ nghĩa tư bản với sự tự do bóc lột - "Người với người là chó sói" (Lenin) - và đầy rẫy bất công tạo ra mầm mống của bạo động và cách mạng, thế giới cũ đã tìm các cách thích nghi và triển khai một xã hội dân sự mà trong đó mọi thành phần xã hội đều có thể phát triển hoặc có cơ hội phát triển ngang nhau, các mâu thuẫn xã hội không thể đã hết nhưng đã có những cơ chế thỏa hiệp để giải quyết trên cơ sở hợp lý cho các giai tầng xã hội. Đây là một đóng góp gián tiếp rất lớn của chủ nghĩa xã hội.
  • Trong lịch sử mấy chục năm tồn tại của mình các nhà nước tiêu biểu của chủ nghĩa xã hội đã triển khai một số các biện pháp kinh tế chính trị xã hội mà ngày nay đã được áp dụng một cách hợp lý sau khi loại bỏ đi những hạt nhân phi hợp lý. Các ví dụ như vậy rất nhiều như: kế hoạch hóa kinh tế ở tầm vĩ mô, dồn nguồn lực quốc gia cho những dự án lớn có tính quan trọng sống còn hoặc cung cấp các dịch vụ công mà tư nhân không đảm đương nổi hoặc không muốn tham gia do khó thu lợi nhuận, thiết lập hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, an sinh xã hội, phổ cập giáo dục và đào tạo ở mức độ quốc gia, các kinh nghiệm về quốc hữu hóa, vai trò của kinh tế quốc doanh trong nền kinh tế... đó là những đóng góp của chủ nghĩa xã hội mà các nước tư bản đã học hỏi rút kinh nghiệm và điều chỉnh để hoàn thiện hệ thống quản lý nhà nước.

[sửa] Karl Marx và mô hình chủ nghĩa cộng sản

Trong thế kỷ 19, trong khi nhận thức về các giá trị giải phóng con người, các quyền của con người, nhận thức về nhu cầu mở ra tối đa khả năng phát triển nhân tính và các khả năng của con người đã có những bước tiến bộ lớn thì hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa đương thời với quan hệ sản xuất của chủ nghĩa tư bản lại đang kìm hãm những khả năng nhân bản đó. Đại bộ phận quần chúng lao động bị tách ly khỏi phương tiện sản xuất phải làm thuê cho giai cấp tư sản- chủ sở hữu các phương tiện sản xuất. Giai cấp công nhân bị đối xử bất bình đẳng trong phân chia của cải xã hội, và thực tế cuộc sống của họ hầu như không thể tiếp cận được với những cơ hội để phát triển con người. Sự bất bình đẳng trong hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa ở thế kỷ 19 là sâu sắc và nhu cầu giải phóng xã hội là cấp thiết.

Karl Marx là nhà tư tưởng có uy tín đương thời với các kiến thức rất uyên thâm trên nhiều lĩnh vực rộng lớn. Các tác phẩm của Marx có rất nhiều nhưng ông viết có hệ thống nhất là các lĩnh vực:

  • Kinh tế chính trị học: tác phẩm quan trọng nhất là Tư bản luận (Das Kapital) nghiên cứu hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa trong đó ông rút ra bản chất bóc lột của hệ thống kinh tế này là thụ hưởng giá trị thặng dư trong thành quả sản xuất do giai cấp làm thuê (công nhân) làm ra.
  • Triết học: Các tác phẩm của ông tự viết hoặc cùng với người đồng chí thân thiết của mình là Friedrich Engels phát triển trường phái triết học chủ nghĩa duy vật biện chứng trong đó coi triết học của mình là kết hợp giữa trường phái duy vật của Ludwig Feuerbach và phương pháp suy luận theo trường phái biện chứng của Georg Wilhelm Friedrich Hegel.
  • Khoa học nhân văn: Chủ nghĩa duy vật lịch sử dựa trên thuyết triết học duy vật biện chứng để giải thích về quá trình phát triển của xã hội loài người. Đúc rút kết luận về các nhân tố phát triển của xã hội loài người và dự báo các xu hướng phát triển kế tiếp của xã hội.
  • Chủ nghĩa cộng sản khoa học: Đây là lĩnh vực tổng hợp các kết quả tư tưởng của Marx và Engels trên cơ sở các lĩnh vực nêu trên. Trong đó Marx tiên đoán về sự diệt vong của chủ nghĩa tư bản vì mâu thuẫn không thể giải quyết được trong lòng nó bởi giai cấp công nhân thông qua một cuộc cách mạng thế giới long trời lở đất để tiêu diệt thế giới cũ bằng con đường bạo lực cách mạng.

Chủ nghĩa cộng sản khoa học của Marx là lý thuyết trung tâm là kết quả của các nghiên cứu của Marx là bộ phận lý thuyết làm sóng gió lịch sử thế giới trong thế kỷ 20.

Marx cho rằng với sự sản xuất tập trung xã hội hoá cao độ với trình độ cao, hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa sản xuất ra một lượng của cải khổng lồ, trong khi đó giai cấp thụ hưởng là giai cấp tư sản chỉ là một bộ phận nhỏ của xã hội. Còn đại bộ phận xã hội là giai cấp công nhân (giai cấp làm thuê) thì không thể tiếp cận được của cải mà họ làm ra vì họ không có quyền sở hữu phương tiện sản xuất đang nằm trong tay các chủ tư bản. Các chủ tư bản thì không đời nào từ bỏ độc quyền tự nhiên của mình để bóc lột giai cấp công nhân. Do đó giai cấp công nhân phải vùng lên dùng bạo lực cách mạng để giành lấy phương tiện sản xuất xoá bỏ tận gốc rễ nguyên nhân "người bóc lột người" của chủ nghĩa tư bản. Đó là cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Sau khi giành được chính quyền trong cách mạng xã hội chủ nghĩa thì sở hữu phương tiện sản xuất sẽ là sở hữu toàn dân. Nhà nước xã hội chủ nghĩa sẽ thay mặt nhân dân điều hành sản xuất và nắm quyền sở hữu này vì nhà nước bây giờ là nhà nước của toàn dân. Trong xã hội đó con người làm việc theo năng lực hưởng thụ theo lao động. Cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền sản xuất xã hội chủ nghĩa thì chức năng của nhà nước ngày càng suy giảm, sự tự giác của nhân dân ngày càng cao và đến lúc đó sẽ xuất hiện xã hội phi giai cấp, không còn mâu thuẫn đối kháng dẫn đến sự tự teo của nhà nước, sẽ xuất hiện một xã hội mà ở đó nguyên tắc phân phối của cải sẽ là "Làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu" đó là chủ nghĩa cộng sản.

Tuy nhiên Marx không tin tưởng vào một tương lai gần của thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa và chủ nghĩa cộng sản vì theo ông thì "Cách mạng xã hội chủ nghĩa không thể chiến thắng đơn độc tại một nước" vì giai cấp tư sản thế giới ở các nước khác sẽ bao vây và bóp chết cách mạng để duy trì lợi ích ích kỷ của mình. Vậy cách mạng xã hội chủ nghĩa sẽ chỉ nổ ra khi nào mâu thuẫn đã quá khủng khiếp "trong tất cả các nước tư bản hoặc chí ít là số lớn các nước tư bản đứng đầu thế giới". Và khi đó sẽ là một cuộc cách mạng thế giới long trời lở đất của giai cấp công nhân chôn vùi chủ nghĩa tư bản. Để giác ngộ giai cấp công nhân hiểu được vai trò lịch sử của mình (Giai cấp công nhân - Giai cấp tiên phong của tiến bộ xã hội, giai cấp cách mạng nhất - Người đào mồ của chủ nghĩa tư bản - Karl Marx) và lãnh đạo cuộc đấu tranh đó Marx chỉ ra là phải có các đảng cộng sản là tổ chức của những người giác ngộ chủ nghĩa cộng sản sẽ hướng dẫn đoàn kết lực lượng của giai cấp công nhân toàn thế giới.

Ngay từ Marx những người cộng sản đã quan niệm rằng chỉ có mâu thuẫn giữa các giai cấp là chủ yếu còn mâu thuẫn giữa các quốc gia, dân tộc là thứ yếu và ông có khẩu hiệu rất nổi tiếng: "Vô sản toàn thế giới liên hiệp lại". Sau này Lenin cũng có ý tưởng như vậy... Sự đối đầu giữa các quốc gia cộng sản sau này cho thấy ý tưởng này không đúng. Mâu thuẫn quốc gia, dân tộc trong thực tế bao giờ cũng mạnh hơn mâu thuẫn giữa các giai cấp.

Một điều rất cần nói về Marx và chủ nghĩa cộng sản của Marx là Marx hoàn toàn không chủ trương "mục đích bào chữa cho phương tiện". Ngay từ thời của mình Marx đã nói: "Một mục tiêu chính đáng không thể bào chữa cho biện pháp không chính đáng để đạt mục tiêu đó". Như vậy có thể nói trong Marx là thấm nhuần tư tưởng nhân đạo, ông chủ trương cách mạng nhưng phải là cách mạng trong nhân đạo để sao cho đạt được sự công bằng cho người này nhưng không lấy mất sự công bằng của người khác. Cách mạng là đi lên là để tầng lớp dưới vươn lên ngang bằng tầng lớp trên chứ không phải là cách mạng là đi xuống để kéo tầng lớp trên cùng xuống dưới.

[sửa] Phê phán chủ nghĩa Marx

Có thể nói Marx là một bộ óc vĩ đại của nhân loại một nhà tư tưởng rất lớn có ảnh hưởng cực kỳ sâu sắc cho đến vài thế kỷ sau. Nhưng trong học thuyết của Marx có nhiều khiếm khuyết mà chủ nghĩa cộng sản sau này đã thể hiện trong thực tế.

  • Marx (cũng như nhiều nhà lý luận vĩ đại khác) luôn có xu hướng tổng kết các thực tiễn phong phú trong một tổng thể hài hoà - một mô hình đáp ứng mọi lời giải của thực tế (đây là điều không tưởng cả trong triết học, khoa học và nhất là khoa học xã hội). Để xây dựng mô hình Marx đã có những phép đơn giản hoá. Có thể thấy xu hướng đơn giản hoá này của Marx trong các lý luận của ông: Trong triết học ông phân triết học ra rạch ròi hai trường phái duy vậtduy tâm và bác bỏ trường phái duy tâm trong khi đó đây là các khía cạnh của thực thể thế giới và nhận thức của con người về thực thể đó và chúng là những khái niệm không thể tách rời. Do đó trong triết học duy vật biện chứng của chủ nghĩa cộng sản có đặc trưng nổi bật là nghiên cứu về sự tư duy của con người rất phiến diện chỉ nhằm vào cái "chung" ít nghiên cứu về cái "riêng", yếu về nhận thức về "cái tôi" trong tư duy con người. Chính có thể vì nguyên nhân này mà các quốc gia cộng sản trong lịch sử rất yếu kém về các môn như lý luận văn nghệ, tâm lý học, các khoa học nhân văn nhất là những lĩnh vực đòi hỏi suy nghĩ không tiêu chuẩn gắn liền với cái suy nghĩ đặc sắc của nhà sáng tác, nhà quan sát. Lý luận văn nghệ của họ rất thấp kém chỉ chỉ ra được theo tiêu chuẩn rất thô sơ một vài trường phái văn nghệ (hiện thực phê phán, lãng mạn, hiện thực xã hội chủ nghĩa)... Theo lý luận của những người Marxist thực thể khách quan ban đầu là vật chất, và đã là một thực thể khách quan (không phụ thuộc vào ý thức của cá nhân) thì ý thức, tư duy con người (là hệ quả của vật chất có chức năng phản ánh hiện thực khách quan) chỉ có thể có một hướng mà thôi. Gặp những trường hợp không đúng theo suy luận kinh điển của họ thì các trường hợp đó được coi là suy đồi và kỳ quái...
  • Trong khi nghiên cứu về xã hội loài người, vì sự tổng kết khiên cưỡng, mô hình của Marx cũng còn rất nhiều các điểm yếu. Lịch sử phát triển xã hội loài người, theo Marx, tổng kết dựa trên mô hình của châu Âu có bản chất là sự phát triển của "lực lượng sản xuất" dẫn đến sự biến đổi của "quan hệ sản xuất": đi từ công xã nguyên thuỷ (mông muội), đến chiếm hữu nô lệ (dã man), đến phong kiến, đến tư bản và cuối cùng là cộng sản (văn minh).

Lý thuyết của Marx đã chỉ ra được một đặc điểm quan trọng của sự phát triển xã hội loài người là sản xuất nhưng còn rất thô sơ không thể giải thích được những hiện tượng xã hội khác mà ông liệt vào các "biến dị" và Marx không đủ sống để kịp tổng kết những hình thái xã hội "biến dị" nhưng khá phổ biến này. Ví dụ Marx không thể lý giải nổi tại sao tại phương Đông văn minh nảy sinh rất sớm như ở (Ấn Độ, Trung Quốc) nhưng sau hàng nghìn năm quan hệ sản xuất không hề thay đổi, lực lượng sản xuất gia tăng nhưng không có quan hệ sản xuất mới, không có các hình thái nhà nước đặc trưng của Marx như chiếm hữu nô lệ hay phong kiến (theo kiểu châu Âu). Mô hình của Marx cũng thất bại không thể giải thích xã hội của các bộ lạc da đỏ châu Mỹ, thổ dân da đen châu Phi, ông chỉ đơn giản hoá mô hình xã hội theo kiểu châu Âu và thậm chí tại đó ông cũng thực hiện các phép đơn giản hoá rất mạnh tay...

Trong sự phát triển của xã hội loài người có rất nhiều yếu tố quyết định và không nhỏ nhưng rõ ràng lý thuyết về sự phát triển của xã hội loài người của Marx là quá thô sơ chưa thể là một khoa học đủ mạnh để lý giải và dự báo cho quá trình phát triển của xã hội. Ngay Marx là người cả đời nghiên cứu về chủ nghĩa tư bản mà cũng không thể nhìn thấy trước được hình thức "tập đoàn tư bản độc quyền xuyên quốc gia" sẽ xuất hiện sau khi ông mất chỉ khoảng vài chục năm, và những hiện tượng như chủ nghĩa tư bản toàn dân như hiện nay của các xã hội Âu - Mỹ khi công nhân cũng có thể là đồng sở hữu của phương tiện sản xuất thông qua cổ phần... thì Marx không thể nào có thể tưởng tượng ra nổi. Vậy phải chăng không thể dự báo được thế giới chỉ dựa trên lý luận duy lý và thuần tuý số liệu của hiện tại.

  • Marx và các nhà Marxist đương thời đã không nhìn ra được hiệu lực của các biện pháp giải quyết các mâu thuẫn xã hội bằng biện pháp phi bạo lực, phi cách mạng. [cần dẫn chứng] Tại thời điểm của Marx cũng dễ hiểu người ta chỉ nhìn thấy các biện pháp cách mạng và bạo lực để giành lấy quyền lợi cho giai cấp mà không thấy được sức mạnh rất lớn của các cách giải quyết hoà bình bằng thoả hiệp và đối thoại. Marx đã phê phán và bác bỏ chủ nghĩa xã hội không tưởng lấy sự thất bại của nó làm minh chứng cho sự cần thiết của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Thực tế lịch sử của nhân loại cho thấy trong một xã hội đã có trình độ sản xuất phát triển cao, các mối quan hệ chính trị, kinh tế, xã hội đan xen gắn chặt (mà thế kỷ 19 và sau này thế giới đã có) thì các biện pháp cách mạng bạo lực có thể cho một kết quả tức thì rất sâu sắc khi quần chúng bị kích động đứng lên làm cách mạng nhưng nó sẽ đi kèm những tổn thất rất to lớn cho xã hội trong một thời gian dài, và khi cần kìm hãm cách mạng lại đưa về trạng thái đúng đắn ôn hòa thì đó lại là một việc cực kỳ khó và còn mất thời gian cùng tổn thất rất lớn khác. Các biện pháp hoà bình bất bạo động tuy phải thực hiện một cách từ từ và dường như kém hiệu quả nhưng thực tế nó có thể giải quyết mọi mâu thuẫn một khi mâu thuẫn đó là chín muồi vì xã hội là tổng thể các lực lượng xã hội và các lực lượng đó đều cần đến nhau. Các gương sáng của Mahatma Gandhi, Martin Luther King, Jr. cho thấy đấu tranh hoà bình cũng là một cách giải quyết tốt. Sau Marx thế giới đã đổi thay sâu sắc, đã xuất hiện các phương pháp đấu tranh hoà bình hữu hiệu thông qua các thiết chế như công đoàn, các tổ chức xã hội, dư luận xã hội, tự do báo chí, tôn giáo, nghị trường... Một xã hội công dân có thể điều hoà các mâu thuẫn một cách chấp nhận được mà không cần đến cách mạng.

Karl Marx (và Engels) là nhà tư tưởng rất lớn của nhân loại và hiện nay vẫn được coi là một trong những nhà tư tưởng nhân đạo có ảnh hưởng nhất của loài người. Các nghiên cứu của Marx, Engels đã có các phát hiện đặc sắc và có những vai trò tích cực nhất định trong đó có lý thuyết về chủ nghĩa cộng sản khoa học. Nhưng đó mới chỉ là các phác thảo lý thuyết theo suy nghĩ của Marx, Engels và còn ở dạng lý tưởng. Còn lý thuyết đó được áp dụng như thế nào trong thực tế thì đó là trách nhiệm và sự nghiệp của những người sau Marx.

Một lý thuyết của một người, dù thiên tài đến đâu, sống ở thế kỷ 19 không thể là kim chỉ nam của xã hội loài người cho thế kỷ 20 và sau đó được, mà đúng ra chỉ có thể được xem như các yếu tố tham khảo cần có hiệu chỉnh của thực tế và thời gian lấy thực tế làm thước đo chân lý. Chủ nghĩa cộng sản trong hành động đã khiếm khuyết và thất bại vì nó không kịp đổi mới theo sự thay đổi của thế giới lấy phương pháp cách mạng của nó làm tiêu chuẩn tối thượng biến nó thành mục đích tự thân mà không lấy mục tiêu ý tưởng nhân đạo phù hợp thực tế làm thước đo. [cần dẫn chứng]

[sửa] Chủ nghĩa Lenin và lý thuyết về nhà nước chuyên chính vô sản

Vladimir Ilyich Lenin) là nhà kinh điển thứ hai của chủ nghĩa cộng sản. Lenin viết rất nhiều tác phẩm nhiều chủ đề cũng có cả triết học, kinh tế học, lịch sử, luật... và các môn khoa học nhân văn khác. Nhưng khác với Marx (các tác phẩm phân bố khá đồng đều về các chủ đề), các tác phẩm của Lenin hầu hết tập trung vào chủ nghĩa cộng sản hiện thực đưa chủ nghĩa cộng sản từ lý thuyết vào thực tế cuộc sống xã hội. Lenin là người chủ xướng, lãnh đạo Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng 10 Nga lập ra nhà nước đầu tiên xây dựng chủ nghĩa xã hội tại đất nước to nhất thế giới vào năm 1917. Tên tuổi của Lenin gắn liền với giai đoạn đầu tiên hình thành lý thuyết và hiện thực phát sinh của nhà nước này. Các lý luận của Lenin có ảnh hưởng rất to lớn trong lý luận của các đảng cộng sản và các quốc gia xã hội chủ nghĩa, được coi là kinh điển và dẫn chiếu nhiều hơn cả Marx. Sau này các phát biểu ý tưởng của Lenin được coi là khuôn vàng thước ngọc không thể phê phán cho các đảng cộng sản tại các quốc gia xã hội chủ nghĩa. Mọi sự nhận xét và ý kiến trái với Lenin (và Marx) được gắn mác hoặc chụp mũ rất trầm trọng là chủ nghĩa xét lại và có thể bị khai trừ khỏi phong trào Cộng sản thế giới.

Cũng như Marx, Lenin là nhà cách mạng nhiệt thành của chủ nghĩa cộng sản. Lenin không phải là người đầu tiên truyền bá chủ nghĩa Marx vào Nga mà đó là một nhà Marxist ôn hòa - Plekhanov người sáng lập đảng công nhân xã hội chủ nghĩa Nga. Sau này người ta gọi những người theo Plekhanov trong đảng này là phái Menshevic (thiểu số)- là những người không tán thành làm cách mạng vô sản vì họ theo lý thuyết của Marx cho rằng làm cách mạng như vậy là chưa chín muồi, họ chiếm thiểu số trong đại hội đảng năm 1902). Và những người theo Lenin là phái Bolshevic (đa số)- là phái tán thành cách mạng. Từ đó phái Bolshevik của Lenin tách ra thành lập đảng riêng - Đảng Cộng sản (Bolshevik).

Lenin hiệu chỉnh rất nhiều ở chủ nghĩa Marx và sáng tạo ra rất nhiều ý tưởng lý luận mới. Nhưng điểm nổi bật và lớn nhất phân biệt Lenin với Marx là lý luận về chủ nghĩa đế quốc và ý tưởng về khả năng thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản (chủ nghĩa xã hội) trong điều kiện chủ nghĩa đế quốc: Lenin lý luận rằng chủ nghĩa Marx chỉ đúng trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh khi các quốc gia tư bản chưa trở thành đế quốc chủ nghĩa. Còn thời đại của mình (đầu thế kỷ 20) là thời đại của chủ nghĩa đế quốc - là đỉnh cao tột cùng của chủ nghĩa tư bản khi mà hình thức kinh tế chính của nó là các tập đoàn tư bản độc quyền, lũng đoạn nền kinh tế để có thể thu được siêu lợi nhuận và đặc tính đối ngoại là hiếu chiến và xâm chiếm thuộc địa. Trong các điều kiện phát triển khác nhau thì trong hệ thống đế quốc chủ nghĩa đã xuất hiện các "khâu yếu" (theo lời của Lenin là các "mắt xích yếu") và cách mạng vô sản có thể chiến thắng tại một trong các mắt xích yếu đó (Cách mạng vô sản là cách gọi khác của cách mạng xã hội chủ nghĩa - Thuật ngữ "Giai cấp Công nhân" còn được gọi là "giai cấp vô sản"). Đây là điểm khác biệt lớn nhất của Lenin so với Marx và được những người Marxist-Leninist xem là sáng tạo lý luận vĩ đại nhất trong kho tàng lý luận của chủ nghĩa cộng sản. Như vậy khi đề ra chủ nghĩa cộng sản Marx không tin rằng chủ nghĩa của mình có thể thành công trong tương lai gần và cũng chỉ nói chung chung về mặt lý tưởng như vậy mà thôi, và cũng không chỉ ra được cách tiến hành cách mạng như thế nào, các đặc trưng của cách mạng đó ra sao, sau cách mạng xây dựng xã hội mới thế nào. Còn với Lenin thì chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa xã hội, cách mạng xã hội chủ nghĩa đã là một thực tế và mọi nỗ lực của mình Lenin giành cho sự nghiệp đưa chủ nghĩa cộng sản vào cuộc sống. Có thể nói vai trò của Lenin đối với chủ nghĩa cộng sản không nhỏ hơn nếu không nói là lớn hơn vai trò của Karl Marx, người ta còn gọi chủ nghĩa cộng sản là chủ nghĩa Marx-Lenin (Marxism-Leninism).

Cũng giống như Marx, Lenin cũng cho rằng các đảng cộng sản phải là đảng của giai cấp công nhân toàn thế giới đấu tranh theo sự phối hợp chung vì sự nghiệp chung của vô sản trên toàn thế giới. Mâu thuẫn giai cấp là tối cao, mâu thuẫn quốc gia - dân tộc là thứ yếu. Lenin thậm chí còn đi rất xa hơn nữa khi đưa ra khẩu hiệu "Biến chiến tranh đế quốc thành nội chiến cách mạng" trong Đệ nhất thế chiến: theo ý tưởng này thì giai cấp vô sản có thể và càng tốt nếu làm quốc gia mình thua trận, làm hỗn loạn trong nước, miễn sao tạo điều kiện để có cách mạng vô sản thành công. Và thực sự các đảng viên Bolshevic đã đi đầu làm tan rã quân đội Sa hoàng làm Quân đội Nga thất bại trên chiến trường Đệ nhất thế chiến tạo điều kiện rối loạn trong nước để làm cách mạng. Điều này trái với các khái niệm và tình cảm thông thường của con người như tính tự tôn dân tộc, tinh thần yêu nước và vi phạm quyền lợi lâu dài của quốc gia. Đây là nguyên nhân gây ra sự bất đồng lớn rất sâu sắc trong cộng đồng Marxist của các nước châu Âu tại Quốc tế II: những người không tán thành quan điểm này của Lenin, những người coi quyền lợi quốc gia cao hơn quyền lợi giai cấp và tư tưởng, và còn vì một vài cách biệt khác thì tách ra thành lập phong trào mới là tiền thân các đảng xã hội ngày nay ở châu Âu. Và những người có quan điểm tương tự bị quy kết là theo chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi trái với tinh thần của chủ nghĩa Marx-Lenin chân chính, (Nguyễn Ái Quốc khi ở Quốc tế Cộng sản trong những năm 1920-1930 cũng bị Stalin kết tội này). Sau này tuy các đảng cộng sản đều nói, viết lý luận theo Lenin đả phá chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi nhưng trong thực tế họ đều coi quyền lợi quốc gia dân tộc đứng trên quyền lợi của giai cấp và đó là điều hợp lý, họ chỉ nhấn mạnh luận điểm này của Lenin chừng nào nó mang lại lợi ích cho đảng, quốc gia họ.

Lenin khi lý luận về khả năng thắng lợi của cách mạng tại một quốc gia đã đưa ra một ý tưởng mới rất khác lạ với Marx là hệ quả của điểm khác biệt lớn nhất của hai người - đó là khái niệm "cùng tồn tại hòa bình" (Мирное сосуществование): theo đó các đế quốc và các quốc gia xã hội chủ nghĩa cùng có thể tồn tại hòa bình với nhau (rất khác quan điểm của Marx rằng các nước tư bản nhất định sẽ tập hợp lại bóp chết cách mạng đến cùng), thậm chí có thể hợp tác trong một số lĩnh vực. Và chủ nghĩa xã hội sẽ thắng lợi trên toàn thế giới thông qua "thi đua hòa bình" mà trong đó công cuộc xây dựng chủ nghĩa cộng sản sẽ là hình mẫu ưu thế của thế giới mới trước thế giới cũ và nhân dân cùng vô sản tại các nước tư bản còn lại sẽ tự đứng lên lật đổ chế độ đó. Khái niệm "diễn biến hòa bình" ngày nay các quốc gia cộng sản hậu Xô Viết đang ra sức chống lại đó chính là khái niệm "Thi đua hòa bình" ngày xưa của Lenin nhưng theo chiều ngược lại.

Trong quan hệ đối với chủ nghĩa tư bản ngoài khái niệm "cùng tồn tại hòa bình" và "thi đua hòa bình" Lenin đưa vào lý luận chủ nghĩa quốc tế vô sản coi giai cấp vô sản toàn thế giới là vô biên giới và đều là anh em (như Hồ Chí Minh diễn giải: quan sơn muôn dặm là nhà, bốn phương vô sản đều là anh em): Vô sản tại các nước tư bản phải đấu tranh ủng hộ, đoàn kết với vô sản tại các nước xã hội chủ nghĩa đã thắng lợi để bảo vệ thành quả cách mạng, Vô sản tại các nước xã hội chủ nghĩa phải làm mọi cách cổ vũ giúp đỡ vô sản tại các nước tư bản vùng lên làm cách mạng vô sản. Việc giúp đỡ phát triển phong trào cộng sản ra toàn thế giới được xem là nghĩa vụ thiêng liêng và bắt buộc của các quốc gia cộng sản, để phối hợp hành động của các đảng cộng sản và lãnh đạo đấu tranh của vô sản toàn thế giới Lenin cho thành lập Quốc tế Cộng sản (Communist international) hay Quốc tế III trụ sở tại Moskva sau khi cách mạng tháng 10 Nga thành công. Từng đảng cộng sản được phân công trong từng khu vực của thế giới có trách nhiệm phát triển cách mạng trong khu vực của mình. Mọi hành động của phong trào cộng sản đều được lãnh đạo điều phối từ đây khi Quốc tế Cộng sản còn hoạt động.

Một lý luận mới của Lenin có ảnh hưởng tai hại rất sâu xa đối với các hoạt động của các đảng cộng sản và quốc gia cộng sản sau này là lý luận về "tính đảng", "tính giai cấp" của mọi hiện tượng trong đời sống xã hội (mọi hiện tượng xã hội đều có tính đảng, tính giai cấp): Nghĩa là mọi hiện tượng đều phải được phân tích rõ ra: nó làm lợi cho ai trong cuộc đấu tranh giai cấp, và trên cơ sở đó khẳng định tính "địch - ta" của hiện tượng đó, và Lenin đưa ra một công thức xác định chân lý như sau: "Miễn là có lợi cho sự nghiệp đấu tranh của giai cấp vô sản thì đều là chính nghĩa, có hại cho cuộc đấu tranh đó thì đều là phi nghĩa!!!?". Trong cao trào đấu tranh giai cấp ác liệt của cách mạng và nội chiến đẫm máu Lenin có một câu nói rất nổi tiếng: "Ai không cùng với chúng ta thì đó là kẻ thù của chúng ta". Luận điểm về "tính đảng" và "tính giai cấp" này của Lenin mang nặng tính vị lợi có hậu quả rất tai hại sâu xa cho hiện thực cuộc sống các quốc gia cộng sản sau này: người ta có thể chỉ ra rất nhiều kẻ thù và sử dụng lý thuyết này vào việc quy kết bừa bãi kẻ thù của cuộc đấu tranh giai cấp. Việc áp dụng "tính đảng", "tính giai cấp" đã làm méo mó lý luận của chủ nghĩa cộng sản: không còn gì là cơ sở để làm tiêu chuẩn đánh giá "đúng - sai", chân lý được diễn giải vô nguyên tắc miễn sao phù hợp với lợi ích trước mắt và không loại trừ bị các cá nhân cầm quyền lợi dụng vào việc triệt hạ đối thủ. Chính từ lý luận về "tính đảng", "tính giai cấp" lý luận của chủ nghĩa cộng sản đã bắt đầu mất tính lý luận tích cực của nó và dần dần trở thành công cụ để minh họa cho các nhà lãnh đạo của đảng cầm quyền. Thậm chí thành tiền lệ các quốc gia cộng sản rất thích dùng "lý luận" với các lời lẽ to lớn, với các trích dẫn kinh viện để mào đầu cho các việc nhỏ nhặt có tính kỹ thuật, chiến thuật. Tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo được đánh giá theo "trình độ lý luận" với sự "lý luận" ngày càng giáo điều, sai lầm, xa rời thực tế cuộc sống.

Nếu nói đến Lenin và chủ nghĩa cộng sản hiện thực thì điều lớn nhất liên tưởng đó chính là khái niệm "chuyên chính vô sản". Chuyên chính vô sản theo định nghĩa của Lenin là chức năng của nhà nước vô sản trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội để trấn áp kiên quyết mọi sự ngóc đầu trở lại của giai cấp tư sản vừa bị đập tan, tiến hành đấu tranh giai cấp để củng cố thành quả của cách mạng. Nhưng điểm đặc trưng của chuyên chính vô sản là nó không bị phụ thuộc vào bất cứ quy tắc pháp luật hay giới hạn nào về đạo đức, tôn giáo, mà Lenin và các người kế tục mình gọi các quy chuẩn nhân đạo thông thường đó là "đạo đức tiểu tư sản" (Буржуазные морали, Bourgeoisie morals) không cần thiết phải tuân thủ. Lenin đặc biệt đề cao tính cương quyết sắt đá chống lại kẻ thù tư tưởng, ông đề cao anh em Maximilien Robespierre và những người Jacobins của Cách mạng Pháp và coi sự hy sinh nhân mạng lớn lao và khủng bố là hệ quả tất yếu của một quá trình vĩ đại. Thậm chí Lenin còn gián tiếp khuyến khích cho các hành động khủng bố bằng sự đồng tình với tuyên bố của Dzerzincki (Дзержинский - người lãnh đạo cơ quan trấn áp phản cách mạng): "khủng bố trắng phải được đáp trả bằng khủng bố đỏ" trong khi khủng bố trắng chỉ nhằm ám sát vào một số ít các cá nhân lãnh tụ của nhà nước Xô viết còn khủng bố đỏ nhằm vào tất cả địch thủ thật và không thật của chính quyền Xô Viết và cả người thân của họ. Ở đây Lenin đã xa rời quan điểm của Karl Marx về nguyên tắc nhân đạo "Mục đích chính đáng không bào chữa cho phương pháp không chính đáng" đối với Lenin cách mạng là mục tiêu nhân đạo chính đáng cao nhất, để đạt được nó cho phép sử dụng mọi biện pháp dù không nhân đạo chính đáng, bắt đầu từ đây đã có nền móng của việc biến chuyển của chủ nghĩa cộng sản từ "phương tiện vì hạnh phúc của con người" thành "mục đích tự thân" để đạt được nó có thể hy sinh hạnh phúc của con người.

Lenin có một đặc tính cá nhân đặc sắc là người có tính thực tế, vị lợi, không câu nệ vào các lý thuyết giáo điều, phương châm của ông là "Có lợi là làm" là người có trình độ học vấn và lý luận cao, và có tài năng thiên bẩm của nghệ thuật hùng biện Lenin sử dụng khả năng của mình để củng cố cho quan điểm của mình. Việc Lenin sẵn sàng hiệu chỉnh cả Marx - một nhà tư tưởng có ảnh hưởng thế giới cho thấy tính chất này của Lenin. Nếu có điều gì có vẻ trái với các lý luận của Marx và Engels thì ông sẵng sàng viết luôn các tác phẩm lý luận coi đó là kinh điển của chủ nghĩa Marxism - Leninism. Một trong các thành quả đặc sắc của Lenin là ông đã thực hiện thắng lợi "Chính sách kinh tế mới" (НЭП - Новый экономический план): Ngay sau nội chiến tàn hại đến tận gốc rễ nước Nga, Lenin cho tiến hành chính sách kinh tế - xã hội này (tất nhiên chưa từng có tiền lệ trong lịch sử) là cho phép sử dụng các cơ chế kinh tế tư bản chủ nghĩa kêu gọi đầu tư của tư bản trong nước và nước ngoài trong sự kiểm soát, dẫn hướng của nhà nước xã hội chủ nghĩa vì lợi ích của vô sản (theo thuật ngữ ngày nay đây chính là "kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa"). Đây là một sáng tạo lý luận thực sự rất to lớn của Lenin và đã thành công, chỉ trong 1- 2 năm đã nhanh chóng vực nước Nga từ bờ vực phá sản và chết đói đứng lên vững mạnh làm tiền đề để Stalin thực hiện công nghiệp hoá sau này. Mô hình các cuộc cải cách kinh tế của Trung QuốcViệt Nam trong những năm 1970 - 1980 và tiếp diễn cho đến hiện nay đã được Lenin cho tiến hành từ hơn nửa thế kỷ trước. Sau khi Lenin chết Stalin đã chấm dứt chính sách này và chuyển nền kinh tế, xã hội sang phương thức hoàn toàn khác. Có thể giả thiết rằng nếu sự cầm quyền của Lenin kéo dài thì hình ảnh xã hội chủ nghĩa có thể đã khác.

[sửa] Phê phán chủ nghĩa Lenin

Lenin là con người thực tế, trong cuộc sống sinh hoạt đấu tranh nội bộ đảng ông là một con người tế nhị, lịch sự, dân chủ, chấp nhận tranh luận (việc nhóm Kamenhev và Zinoviev cho công bố bí mật của đảng về thời điểm khởi nghĩa vũ trang cách mạng tháng 10 mà chỉ bị kỷ luật đảng và sau này được khôi phục chức vị, việc Lenin tranh luận với nhóm Troski và Uriski về việc ký hoà ước riêng rẽ với Đức...đã cho thấy tác phong dân chủ trong lãnh đạo của Lenin) sau này các đảng cộng sản trên thế giới thường lấy Lenin làm hình mẫu cho tác phong dân chủ trong đảng.

Nhưng những lý luận và thực tế hành động trong lãnh đạo cách mạng và đấu tranh giai cấp của Lenin đã để lại các hậu quả rất tai hại trái ngược với bản tính tế nhị, dân chủ của ông:

  • điều đặc biệt quan trọng Lenin mang lại là đã đặt lý tưởng chủ nghĩa của mình lên trên tất cả trên cả các giá trị nhân đạo cơ bản của loài người: đối với Lenin cách mạng vì mục đích vĩ đại chưa cụ thể có thể hy sinh những con người cụ thể [cần dẫn chứng], dưới thời Lenin được thực thi các biện pháp đấu tranh mang tính khủng bố rất bạo tàn để chống lại kẻ thù, [cần dẫn chứng] kéo theo vô số nạn nhân vô tội làm cho đấu tranh giai cấp là quá đẫm máu, [cần dẫn chứng] Cách mạng vô sản không còn là cuộc cách mạng dân chủ nhân đạo, nó tước đoạt cuộc sống, quyền lợi của một bộ phận rất lớn nhân dân trong đó có nông dân là bộ phận rất đông đảo trong xã hội Nga và về lý thuyết là đồng minh của giai cấp Vô sản. [cần dẫn chứng] Về khía cạnh tiến bộ dân chủ đây là bước lùi của cách mạng dù Lenin đã biện luận: "Dân chủ xã hội chủ nghĩa là dân chủ gấp nghìn lần nền dân chủ tư sản".
  • Tuy ở một vài bài nói chuyện, một vài tác phẩm Lenin cho rằng chủ nghĩa cộng sản phải tiếp thu tất cả các tinh hoa mà nhân loại đã tạo ra kế thừa và phát triển chúng, bản thân Lenin đánh giá rất cao và rất thích nhạc Ludwig Van Beethoven, và lúc chết khi đang nghe vợ đọc truyện ngắn "Tình yêu cuộc sống" của Jack London nhưng tại những tác phẩm khác trực tiếp hay gián tiếp Lenin lại đề ra ý tưởng tất cả cái gì vô sản đều là tốt, tất cả cái gì của thế giới cũ đều là xấu, [cần dẫn chứng] khuyến khích lật nhào tất cả của thế giới cũ: từ quan hệ sản xuất đến truyền thống tập tục cũ, đến truyền thống văn hoá, trong quá trình đấu tranh giai cấp các giá trị chung của con người cả về vật chất cả về các giá trị phi vật chất của xã hội cũ đã bị đem ra phân tích "tính giai cấp" để xác định "địch - ta" và phá huỷ không thương tiếc trong đó có tôn giáo: cộng sản là vô thần, tuy trong lý luận Lenin cho rằng đối với tôn giáo không thể dùng biện pháp cưỡng ép mà phải dùng thuyết phục, giáo dục tự giác để nhân dân từ bỏ sự nô lệ về tư tưởng... Nhưng trong thực tế trong cao trào đấu tranh giai cấp bằng phương pháp tìm kẻ thù bằng "tính giai cấp", "tính đảng" chính quyền Bolshevic của Lenin đã đánh đồng tôn giáo (nhất là nhà thờ chính thống giáo) của người Nga là kẻ thù là "tay sai của bọn tư sản và địa chủ" tịch thu đất đai của nhà thờ, đàn áp, đày ải các cha đạo, chính điều này là một trong các nguyên nhân đã làm rất nhiều nông dân ngoan đạo và cả tộc người Cô dắc đi theo phía phản cách mạng. [cần dẫn chứng]
  • Bằng những chính sách cực đoan cuộc cách mạng vô sản của Lenin đã không nhận được sự ủng hộ của giới trí thức và kết quả là trí thức được đưa vào hàng ngũ đối nghịch của Cách mạng. [cần dẫn chứng] Thực tế là cuộc cách mạng tháng 10 và nội chiến cách mạng đã tiêu diệt gần hết tầng lớp trí thức rất có uy tín của nước Nga, hầu hết những trí thức đã bỏ ra nước ngoài còn những ai ở lại thì bị nghi kỵ phân biệt đối xử và sự mất tự do làm họ không thể đóng góp được cho xã hội. [cần dẫn chứng] Sau này nước Nga phải xây dựng lại đội ngũ trí thức vô sản bằng cách mầy mò lại từ đầu với sự hoang phí tri thức rất to lớn.
  • Bằng lý luận vị lợi về "tính đảng" và "tính giai cấp" và "chuyên chính vô sản" Lenin vô tình đã đặt nền móng cho nhà nước cực quyền chưa từng thấy trong lịch sử của Stalin với mũi nhọn đấu tranh giai cấp bây giờ quay lại tìm "kẻ thù giai cấp" trong chính hàng ngũ cán bộ và quần chúng vô sản với thực tế vô cùng khủng khiếp. Lý luận này là tiền đề để thành lập tệ sùng bái cá nhân đặc trưng của các quốc gia cộng sản mặc dù cá nhân Lenin có tác phong dân chủ trong đảng, kịch liệt đề cao nền dân chủ trong đảng, chống sùng bái và độc đoán cá nhân.
  • Lý luận tính đảng, tính giai cấp đã xoá nhoà các tiêu chuẩn đúng - sai của xã hội loài người, xoá bỏ các giá trị chung của nhân loại,làm biến dạng lý luận của chủ nghĩa cộng sản, làm lý luận cộng sản càng ngày càng giáo điều xa vời thực tế. Điều này sẽ được thấy rõ trong cuộc sống cả các đảng cộng sản và các quốc gia cộng sản sau này.

Tuy Lenin trong lý luận có rất nhiều điểm hợp lý, ôn hoà không khuyến khích bạo lực nhưng thực tế cách mạng và nội chiến đã đi quá xa những điều lý luận của Lenin và có kết quả rất khác xa với lý luận vì các nguyên nhân sau:

  1. Quy mô và tốc độ quá lớn của cuộc cách mạng làm cho những người Bolshevic không thể theo kịp tiến trình của sự việc họ không thể kiểm soát nổi tình hình nữa. Thực sự trong nhiều thời điểm nhiều khu vực đất nước đã rơi vào hỗn loạn vô chính phủ, chính quyền cách mạng và phản cách mạng thay đổi liên miên mọi sự đều phụ thuộc vào ý chí các chính uỷ cách mạng mà họ trong cao trào cách mạng đẫm máu đã trở nên cương quyết, sắt đá và bị chi phối bởi tâm lý trả thù... [cần dẫn chứng]
  2. Lenin là một người hay hùng biện trước công chúng để cho công chúng dễ hiểu ông thường nói theo công thức đơn giản, cụ thể, ví dụ khi nói về tầm quan trọng của điện khí hoá toàn Nga ông nói: "Chủ nghĩa cộng sản là chính quyền Xô Viết cộng với điện khí hoá". Hoặc khi động viên chiến sỹ hồng quân ra chiến trường để đề cao tính cương quyết chống kẻ thù giai cấp ông nói: "Ai không cùng chúng ta, người đó là kẻ thù của chúng ta" [cần dẫn chứng] ... Nhưng các cán bộ Bolshevic cấp dưới phần nhiều là công - nông - binh mù chữ hoặc trình độ thấp hoặc các cán bộ cao cấp cố tình áp dụng lời lãnh tụ theo nguyên văn làm cho nhiều khi ý của Lenin bị diễn giải sai lầm đây cũng là một hệ quả của Cách mạng mà Lenin phải chịu trách nhiệm.
  3. Rất nhiều các nghị quyết sắc lệnh của chính quyền Xô Viết được làm ra tại các đại hội Xô Viết của đại biểu Công – Nông – Binh khi mà đại biểu công nhân đi thẳng đến từ xưởng máy, đại biểu binh sỹ còn quấn băng đầy thương tích đi đến từ chiến trường cuộc nội chiến, diễn giả hùng biện trong không khí đầy kích động người nghe huýt sáo, bắn súng, tung ném để hưởng ứng hoặc phản đối trong bối cảnh như vậy khó có các quyết định ôn hoà, sáng suốt, việc giải quyết các vấn đề quản lý nhà nước được diễn ra trong bối cảnh bị tâm lý kích động của đám đông quần chúng. Trong điều kiện như vậy các lý luận ôn hoà của Lenin không thể thực thi theo đúng lý luận của của nghĩa Leninism được nhưng đây cũng là trách nhiệm của những người Leninist.

[sửa] Các phái lý luận cộng sản

Việc phân loại, gọi tên trong phong trào cộng sản và công nhân thế giới là khá phức tạp có nhiều sự lẫn lộn và có nhiều lý giải khác nhau. Một mặt đó là do các mâu thuẫn trong lòng phong trào: một đảng, tổ chức tự nhận mình theo trào lưu này nhưng trong con mắt của đảng khác và tổ chức khác thì lại không phải như vậy, và trong một phong trào, đảng cụ thể có cả những đặc điểm lý luận của nhiều phái do đó phân loại cũng có tính tương đối. Sự hiểu về tên và bản chất các phái và trào lưu cũng khác nhau một phần cũng vì sự phức tạp trong việc dịch thuật giữa các ngôn ngữ: cùng một thuật ngữ khi bình thường thì được hiểu một nghĩa nhưng khi áp dụng trong lý luận cộng sản chính thống thì nghĩa có thể thay đổi; ví dụ thuật ngữ socialism trong sự hiểu và trong sử dụng thông thường ở Việt NamLiên Xô thì là "chủ nghĩa xã hội" nhưng trong lý luận cộng sản chính thống ở hai nước này thì tên "chủ nghĩa xã hội" chỉ được dùng cho những đảng, trào lưu, nhà nước nào đi theo đường lối của chủ nghĩa Lenin tán thành cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội, ví dụ "Socialist Republic of Vietnam" là "Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam". Còn không thì chỉ được gọi là "xã hội" hoặc theo một tên khác; ví dụ "Socialist party of France" là đảng xã hội Pháp. Cùng một thuật ngữ nhưng sẽ được hiểu tích cực và tiêu cực khác nhau tại nhiều nước và thậm chí trong một nước ở các thời điểm khác nhau. Do vậy sự trình bày về các phái cộng sản dưới đây là có tính tương đối.

[sửa] Chủ nghĩa Stalin

Thuật ngữ Stalinism (chủ nghĩa Stalin) thường để chỉ về cung cách lãnh đạo xã hội và xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, phong cách cá nhân và ảnh hưởng của phong cách đó của Stalin (Иосиф Вucсaрионович Джугашвили - Сталин Iosif Vissarionovich Stalin) tại Liên Xô hơn là để chỉ về lý luận của Stalin trong chủ nghĩa cộng sản. Là người lãnh đạo Liên Xô kế tục Lenin trong một thời gian dài nên ảnh hưởng của Stalin trong các đảng và các quốc gia cộng sản là rất lớn.

Tuy Lenin là người đầu tiên phát biểu lý luận về khả năng thành công của cách mạng vô sản, và xây dựng chủ nghĩa cộng sản trong một nước, nhưng Stalin là người lý luận nhiều nhất về chủ đề này vì đây là cuộc đấu tranh lý luận gay gắt gữa hai phe của Stalin và Trosky, chủ nghĩa Trosky đòi hỏi phát triển cách mạng không ngừng đưa cách mạng ra các nước khác và cuối cùng là cách mạng thế giới (quả thật sau Thế chiến thứ nhất đã có cách mạng tại ĐứcHungary nhưng đã bị dập tắt nhanh chóng), còn phái Stalin cho rằng phải giới hạn cách mạng trong phạm vi của nước Nga (và sau này là Liên Xô) và lý luận về sự thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản mà không cần có đồng minh tại các quốc gia phát triển Âu-Mỹ khác.

Stalin trong tác phẩm "Bàn về vấn đề dân tộc" đã lý luận rằng "Có thể xây dựng được chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản tại các dân tộc chưa phát triển chưa trải qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa, trong xã hội chưa có giai cấp công nhân nếu có sự giúp đỡ của giai cấp công nhân Nga làm đầu tầu trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản". Đây là luận điểm của Stalin để lý luận về khả năng thắng lợi của chủ nghĩa xã hội tại Liên Xô, nơi có nhiều dân tộc còn đang lạc hậu trong thuộc địa cũ của Nga hoàng, và điều này là cơ sở lý luận để những người cộng sản ở một số nước thuộc địa khác như Việt Nam làm cách mạng xã hội chủ nghĩa "từ một nước thuộc địa nghèo nàn, nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa".

Đặc biệt Stalin có một luận điểm gây nhiều hậu quả cho xã hội Liên Xô là luận điểm "Tăng cường đấu tranh giai cấp" cho rằng sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa cộng sản càng thắng lợi thì các mâu thuẫn trong lòng nó giữa giai cấp vô sản và tàn tích của giai cấp tư sản càng gia tăng do đó càng cần phải đẩy mạnh đấu tranh giai cấp để tiêu diệt sạch các tàn tích đó. Đây là luận điểm tạo cơ sở lý luận để Stalin tiến hành khủng bố thanh lọc trong nội bộ đảng, nhà nước và xã hội để loại bỏ bất cứ một hành vi hoặc ý định bất phục tùng nào để thiết lập một chế độ cực quyền có một không hai trong lịch sử. Stalin sử dụng lý luận này và bằng các biện pháp tìm kẻ thù bằng "tính giai cấp" để loại bỏ bất cứ ai mình muốn.

Về mặt kinh tế Stalinism đặc trựng bằng sự xóa bỏ thẳng thừng nền kinh tế thị trường đưa nền kinh tế sang một mô hình tập trung quan liêu cao độ mọi phương tiện sản xuất đều nằm trong tay nhà nước thông qua chỉ hai hình thức "sở hữu toàn dân" và "sở hữu tập thể". Sau khi Lenin chết chính sách kinh tế mới (НЭП) bị bãi bỏ mọi tài sản của "các phần tử tư nhân" bị tịch thu, toàn bộ nền kinh tế được điều hành theo mệnh lệnh từ trên xuống dưới nhất nhất theo "kinh tế kế hoạch hoá" kế hoạch sản xuất là pháp lệnh rất nghiêm ngặt. Và Liên Xô liên tiếp tiến hành các kế hoạch 5 năm, kế hoạch 7 năm và tiến hành "công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa" trong công nghiệp và "tập thể hóa nông nghiệp" cưỡng bức. Các nhà lý luận của Stalinism và của các quốc gia cộng sản sau này coi kinh tế tập trung - kế hoạch hoá, công nghiệp hóa và tập thể hóa là các thắng lợi to lớn là đóng góp lý luận vĩ đại của Stalin trong lý luận cộng sản chủ nghĩa. Ưu thế của hình thức kinh tế này được dẫn ra như đó là nền tảng để đảm bảo thắng lợi trong Chiến tranh vệ quốc vĩ đại và bất cứ một quốc gia nào sau này theo chủ nghĩa xã hội thì cũng đều đi theo mô hình kinh tế này.

Về mặt hình thức nhà nước, Stalinism đặc trưng bởi nhà nước tập quyền cao độ gắn liền với đảng, Trong đó đảng là lập pháp, hành pháp, tư pháp, công đoàn và mọi chức năng nhà nước và xã hội khác, trong đó lãnh tụ đảng có quyền hạn tuyệt đối, dưới thời Stalin quyền hạn tuyệt đối đã biến thành sùng bái cá nhân Stalin với nhiều hậu quả sau này. Xã hội duy trì kỷ luật bằng sự tin tưởng mù quáng vào sự anh minh của lãnh tụ và sự khiếp sợ bị khủng bố.

Ngoài ra Stalin còn có các tác phẩm về đề tài quân sự và được những người cộng sản quy cho là nhà tư tưởng quân sự lớn đã tổng kết và đưa ra học thuyết quân sự của chủ nghĩa xã hội. Stalin cho rằng quy luật và nghệ thuật chiến tranh của giai cấp vô sản phải khác một trời một vực so với quy luật và nghệ thuật quân sự tư sản. Trong các tác phẩm này (thường viết trước Thế chiến thứ hai) Stalin lý luận về xây dựng lực lượng vũ trang về sự lãnh đạo chính trị trong các lực lượng vũ trang coi quân đội là quân đội của đảng, chịu sự quản lý trực tiếp từ đảng. Stalin lý luận về mối quan hệ của tiến công và phòng ngự, cho rằng học thuyết quân sự của giai cấp vô sản phải là tiến công không ngừng, phòng ngự là tạm thời, tiến công là chủ yếu, khẳng định tính tất thắng của giai cấp vô sản một khi có chiến tranh. Bàn về mối quan hệ chiến lược - chiến thuật. Ngoài ra còn bàn về một số vấn đề nghệ thuật chiến tranh như nghệ thuật giành quyền làm chủ trên không, cách sử dụng pháo binh tập trung trên chiến trường... Thực tế thất bại to lớn trong thời gian đầu của "Chiến tranh vệ quốc vĩ đại" cho thấy những sai lầm trong luận điểm quân sự của Stalin, chiến tranh là thử nghiệm khách quan, quy luật chiến tranh là chung cho cả vô sản hay đế quốc, sự duy ý chí sẽ dẫn đến thất bại nặng nề.

Có thể nói Stalinism đóng một vai trò rất quan trọng trong lý luận cộng sản và nó là mô hình tiêu biểu cho thực tế xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các quốc gia khác nhau. Liên Xô sau này tuy chống tệ sùng bái cá nhân Stalin nhưng những mô hình và ảnh hưởng của Stalinism ở các mức độ khác nhau vẫn còn tồn tại cho đến khi Liên Xô sụp đổ và từ bỏ chủ nghĩa cộng sản.

[sửa] Chủ nghĩa Mao

Maoism (chủ nghĩa Mao) là một thuật ngữ chỉ các học thuyết về chủ nghĩa cộng sản do chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc Mao Trạch Đông đưa ra. Tại Trung Quốc thì được gọi là "Tư tưởng Mao Trạch Đông" và trong thập niên 1960 tư tưởng Mao Trạch Đông được in thành các sổ tay bìa đỏ để trang bị về tư tưởng cho cán bộ và nhân dân Trung Hoa đại lục. Tại các nước cộng sản Đông Âu các năm 1960 - 1980 thì thuật ngữ Maoism được xem như một biến thái tiêu cực "tả khuynh" xa rời chủ nghĩa Maxism-Leninism, còn tại một số nước cộng sản châu Á, thuật ngữ này được đánh giá tích cực như sáng tạo của chủ nghĩa Marxism-Leninism trong điều kiện châu Á.

Điều khác nhau lớn nhất của Maoism so với các học thuyết của Marx, Lenin và Stalin là ở quan niệm về động lực chính của cách mạng. Marx, Lenin, Stalin đều coi động lực của cách mạng là "giai cấp công nhân" và coi nhẹ giai cấp nông dân, coi nông dân là lạc hậu không có tính cách mạng tiên phong. Lenin, Stalin chỉ coi nông dân như một đồng minh cần tranh thủ mà thôi, họ coi thành thị là đấu trường cách mạng chính. Mao Trạch Đông xuất phát từ điều kiện của Trung Quốc là nước nông nghiệp, giai cấp công nhân và tư sản còn rất nhỏ bé, mâu thuẫn xã hội lớn nhất là mâu thuẫn nông dân - địa chủ nên tuy vẫn coi giai cấp công nhân là tiền phong cách mạng nhưng đã coi lực lượng cách mạng chủ lực là giai cấp nông dân và nông thôn là căn cứ địa của cách mạng, và coi học thuyết của mình là học thuyết của chủ nghĩa cộng sản cho các nước chưa phát triển thành tư bản.

Cùng với sự khác nhau này kéo theo sự khác nhau về "phương pháp tiến hành cách mạng". Khác với Lenin và Stalin quan niệm về cuộc cách mạng vô sản có tính đồng loạt tại thành thị như một cuộc khởi nghĩa của vô sản, Maoism cho rằng cách mạng phải được tiến hành theo phương thức một cuộc chiến tranh du kích kéo dài lấy nông thôn làm căn cứ địa lan dần dần và đi đến thắng lợi hoàn toàn. Hai câu nói của Mao Trạch Đông về vấn đề này rất nổi tiếng là "Súng đẻ ra chính quyền" và "Nông thôn bao vây thành thị" và Mao Trạch Đông thực sự đã có rất nhiều đóng góp trong lý luận quân sự về chiến tranh du kích và chiến tranh nhân dân nhất là trong tác phẩm "Du kích chiến". Trong đó xem xét đồng loạt các khía cạnh quân sự, chính trị, tâm lý và các biện pháp xây dựng căn cứ địa, tiến hành chiến tranh nhân dân ở nông thôn.

Khác với các tiền bối cộng sản Mao Trạch Đông không đặt vấn đề giai cấp lên trên dân tộc và quốc gia mà luôn coi quyền lợi quốc gia trên hết.

Trong quản lý kinh tế và quản lý xã hội, cũng giống như Stalinism, Maoism cũng theo phương châm tập trung hoá cao độ theo nền kinh tế kế hoạch hoá vĩ mô. Quản lý nhà nước cũng bằng hệ thống nhà nước - đảng với sự sùng bái cá nhân cao độ.

Maoism cho rằng để xây dựng chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa xã hội thì cần có con người cộng sản, con người xã hội chủ nghĩa để làm việc đó cần loại bỏ hết tàn dư tư tưởng tư sản, phản động, biện pháp để thực hiện là tiến hành "cách mạng văn hoá".

Điều dễ nhận thấy của Maoism là lý luận và thực hành của họ trong việc "phát động quần chúng". Phát động quần chúng của Maoism là kết hợp của rất nhiều yếu tố chính trị, xã hội, tổ chức và đặc biệt là yếu tố mê hoặc tâm lý của quần chúng. Trong thực tế thì chủ tịch Mao rất giỏi trong việc mê hoặc và phát động quần chúng, ông có thể phát động quần chúng thực hiện những việc tưởng như không thể tưởng tượng nổi từ phong trào tiêu diệt chim sẻ, các phong trào "Đại nhảy vọt", "ba ngọn cờ hồng" cho đến việc phát động quần chúng dùng Hồng Vệ Binh gây bạo loạn trong "đại cách mạng văn hóa vô sản" để tạo sự lãnh đạo tuyệt đối của mình. Maoism luôn coi chính trị là có vai trò tối thượng trong việc phát động quần chúng. Mao Trạch Đông nói "Chính trị là thống soái" khi có đối thủ chính trị cần phê phán thì không những phải loại bỏ quyền lực chính trị của đối phương mà còn phải tiêu diệt "tư tưởng" chính trị của đối phương bằng cách kiểm thảo, đấu tố, dùng áp lực quần chúng đánh rã đám ý chí tư tưởng của địch thủ, đó là biện pháp "tẩy não" mà Maoism gọi là "cải tạo tư tưởng".

Tâm lý xã hội của Maoism mang nặng đặc điểm tâm lý của xã hội tiểu nông coi chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa xã hội là gắn liền với sự trong sạch coi thường vật chất, coi đói nghèo là tốt đẹp là cách mạng. Đề cao tính đóng kín, chủ trương "tự lực cách sinh" mọi yếu tố tiện nghi, xa hoa và nhất là từ nước ngoài đều bị đánh giá là "biểu hiện tư sản" phải đả phá. Maoism cho rằng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô sau Thế chiến thứ hai khi mà đời sống nhân dân được cải thiện nhiều và có các tiện nghi cao cấp là biểu hiện xa rời lý tưởng cộng sản, chạy theo "lối sống" và "đạo đức tư sản" và Maoism coi mô hình của mình là thực sự cách mạng chân chính và là đầu tầu cách mạng cho thế giới thứ ba. Giai đoạn những năm 1960 - 1970 là cao trào của Maoism cạnh tranh với Liên Xô trong việc lãnh đạo thế giới cộng sản và tranh luận về sự trong sạch của chủ nghĩa cộng sản.

Maoism đã làm cho Trung Quốc thành một xã hội đóng kín với bên ngoài mang nặng những đặc điểm lạc hậu, nhưng chính vào những năm cuối của sự lãnh đạo của mình chủ tịch Mao Trạch Đông đã tiến hành bật đèn xanh để bắt tay với kẻ thù tư bản đưa Trung Quốc thoát dần khỏi sự đóng kín và dần dần cởi bỏ dần các đặc trưng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Dần dần Maoism đã chuyển hướng sang sự ôn hoà hợp lý cốt sao đảm bảo tốt nhất quyền lợi quốc gia và dân tộc.

[sửa] Chủ nghĩa cộng sản châu Âu

Thuật ngữ Eurocommunism (chủ nghĩa cộng sản châu Âu) là tên mà một số đảng cộng sản tại các nước tư bản phát triển tại châu Âu (dẫn đầu là Đảng Cộng sản Ý, Đảng Cộng sản Pháp và Đảng Cộng sản Tây Ban Nha) tự gọi trào lưu của mình. Hiện nay hầu hết các đảng cộng sản tại các nước Tây Âu, Nhật Bản và các nước kinh tế tư bản phát triển đều theo trào lưu này. Trước đây, khi còn Liên Xô, thì Eurocommunism được các đảng cộng sản tại các quốc gia cộng sản đông Âu coi là "chủ nghĩa xét lại", "hữu khuynh" và "cơ hội chủ nghĩa".

Đầu tiên các đảng cộng sản tại các quốc gia này cũng theo chủ nghĩa Marxism-Leninism, trước và đặc biệt sau Thế chiến thứ hai đã có sự chuyển đổi lý luận của các đảng này để trở thành Eurocommunism bởi hai nguyên nhân chính:

  • Chủ nghĩa tư bản đã có những thay đổi to lớn không còn như thời đại của Marx và Lenin nữa, đã bắt đầu xuất hiện các cơ cấu của xã hội dân sự để giải quyết các mâu thuẫn xã hội một cách chấp nhận được.
  • Thực tế tiêu cực tại các nước cộng sản nhất là về các vấn đề mức sống kinh tế và nhân quyền đã làm mất tính hấp dẫn của chủ nghĩa cộng sản tại đa phần dân chúng các nước tư bản phát triển.

Trên cơ sở đó đã xuất hiện lý thuyết Eurocommunism đầu tiên sơ khai từ trước Thế chiến thứ hai từ lãnh tụ Đảng Cộng sản Ý Palmiro Togliatti và sau đó lý thuyết này dần được chia sẻ bởi các đảng cộng sản Tây Âu khác cho đến năm 1977 đã khai sinh chính thức Eurocommunism trong tuyên bố chung của lãnh tụ ba đảng cộng sản Ý, Tây Ban NhaPháp về tiến đến mục tiêu cộng sản bằng hòa bình và tự do trong "dân chủđa nguyên".

Eurocommunism còn được gọi là chủ nghĩa cộng sản nhân đạo cho rằng: Tương lai của xã hội loài người vẫn là theo lý tưởng của chủ nghĩa cộng sản mà Marx đã miêu tả, nhưng con đường đấu tranh đạt đến lý tưởng không còn là bạo lực cách mạng như Marx và Lenin lý luận nữa mà bằng con đường đấu tranh hợp pháp, dân chủ của xã hội công dân và cuối cùng chủ nghĩa tư bản sẽ ngày càng bớt đối kháng (antagonism) để biến chuyển dần thành một chế độ nhân đạo dần mất tính chất "người bóc lột người".

Như vậy Eurocommunism đã phủ nhận sự biến đổi xã hội bằng "đột biến" cách mạng (revolution) mà bằng "tiến hoá" (evolution). Mục tiêu và phương pháp đấu tranh chủ yếu bây giờ của Eurocommunism cũng tiệm cận với mục tiêu và phương pháp của các đảng xã hội và phong trào công đoàn cũng như các phong trào khác (ví dụ đảng Xanh) chủ yếu đấu tranh về mặt kinh tế để đòi tăng lương và tăng mức sống cho giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động khác; tăng cường đấu tranh chính trị - xã hội bằng biện pháp hòa bình để đem lại công bằng xã hội cho giai cấp công nhân; đấu tranh cho quyền tham chính của giai cấp công nhân...

Eurocommunism từ bỏ biện pháp đấu tranh bạo lực và kêu gọi không giải quyết bạo lực trong các mâu thuẫn chính trị - xã hội, ủng hộ bằng tinh thần và bằng biện pháp hòa bình các cuộc đấu tranh của các dân tộc thuộc địa và bị áp bức, kêu gọi lập lại trật tự thế giới công bằng cho các dân tộc. Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh Eurocommunism đi đầu trong phong trào đòi giải trừ quân bị vì nền hòa bình trên thế giới và quyền cùng chung sống hòa bình giữa các chế độ chính trị đối lập.

Ngày nay tại châu Âu lập trường của các đảng cộng sản trong Eurocommunism không khác biệt gì lắm so với các đảng xã hội hoặc các phong trào dân chủ xã hội khác.

[sửa] Đọc thêm

  • Kornai, János, The Socialist System. The Political Economy of Communism. Princeton: Princeton University Press, and Oxford: Oxford University Press, 1992
    • Bản tiếng Việt: Kornai János, Hệ thống xã hội chủ nghĩa. Chính trị kinh tế học phê phán, Nguyễn Quang A dịch, Hà Nội: Nxb Văn hoá Thông tin, 2002.
    • Tóm lược: Nguyễn Quang A, Mô hình Kornai về các hệ thống kinh tế
  • Joseph E. Stiglitz, Whither Socialism?, Cambridge, Massachusetts, and London, England: The MIT Press

[sửa] Xem thêm

[sửa] Liên kết ngoài


aa - ab - af - ak - als - am - an - ang - ar - arc - as - ast - av - ay - az - ba - bar - bat_smg - bcl - be - be_x_old - bg - bh - bi - bm - bn - bo - bpy - br - bs - bug - bxr - ca - cbk_zam - cdo - ce - ceb - ch - cho - chr - chy - co - cr - crh - cs - csb - cu - cv - cy - da - de - diq - dsb - dv - dz - ee - el - eml - en - eo - es - et - eu - ext - fa - ff - fi - fiu_vro - fj - fo - fr - frp - fur - fy - ga - gan - gd - gl - glk - gn - got - gu - gv - ha - hak - haw - he - hi - hif - ho - hr - hsb - ht - hu - hy - hz - ia - id - ie - ig - ii - ik - ilo - io - is - it - iu - ja - jbo - jv - ka - kaa - kab - kg - ki - kj - kk - kl - km - kn - ko - kr - ks - ksh - ku - kv - kw - ky - la - lad - lb - lbe - lg - li - lij - lmo - ln - lo - lt - lv - map_bms - mdf - mg - mh - mi - mk - ml - mn - mo - mr - mt - mus - my - myv - mzn - na - nah - nap - nds - nds_nl - ne - new - ng - nl - nn - no - nov - nrm - nv - ny - oc - om - or - os - pa - pag - pam - pap - pdc - pi - pih - pl - pms - ps - pt - qu - quality - rm - rmy - rn - ro - roa_rup - roa_tara - ru - rw - sa - sah - sc - scn - sco - sd - se - sg - sh - si - simple - sk - sl - sm - sn - so - sr - srn - ss - st - stq - su - sv - sw - szl - ta - te - tet - tg - th - ti - tk - tl - tlh - tn - to - tpi - tr - ts - tt - tum - tw - ty - udm - ug - uk - ur - uz - ve - vec - vi - vls - vo - wa - war - wo - wuu - xal - xh - yi - yo - za - zea - zh - zh_classical - zh_min_nan - zh_yue - zu -