Chiến dịch Junction City
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Operation Junction City | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
Một phần của Chiến tranh Việt Nam
|
|||||||
Cedar Falls/Junction City area of operations
|
|||||||
|
|||||||
Tham chiến
|
|||||||
Việt Nam Cộng hòa Hoa Kỳ |
Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam Việt Nam Dân chủ Cộng hòa |
||||||
Thương vong
|
|||||||
282 chết 1,023 bị thương | 1,728 chết |
Chiến tranh Việt Nam | |
---|---|
Ấp Bắc – Bình Giã – Pleiku – Sông Bé – Đồng Xoài – Starlite – Gang Toi – Ia Đrăng – Hastings – Masher/White Wing – A Sầu – Xa Cam My – Đức Cơ – Long Tân – Attleboro – Cedar Falls – Trà Bình Đông – Bribie – Junction City – Hill 881 – Ong Thanh – Đắk Tô – Mậu Thân – Khe Sanh – Sài Gòn thứ nhất – Huế – Làng Vây – Tà Cơn - Lima Site 85 – Khâm Đức – Dewey Canyon – Trận Tết lần 2 – Đồi thịt băm – Binh Ba – Campuchia – Snuol – FSB Ripcord – Tailwind – Chenla I – Chenla II –Lam Sơn 719 – Bản Đông – FSB Mary Ann – Phục Sinh năm 72 – Quảng Trị lần 1 – Lộc Ninh – An Lộc – Kon Tum – Quảng Trị lần 2 – Phước Long – Hồ Chí Minh – Ban Mê Thuột – Xuân Lộc – Trường Sa – 30/4/75 – SS Mayagüez Các chiến dịch không kích Ranch Hand – Pierce Arrow – Barrel Roll – Pony Express – Flaming Dart – Sấm Rền – Steel Tiger – Arc Light – Tiger Hound – Igloo White – Commando Hunt – Menu – Linebacker I – Linebacker II – Shed Light |
Junction City (thường phiên âm thành Gian-xơn Xi-ty) là một chiến dịch kéo dài 53 ngày của Quân đội Mỹ và Quân lực Việt Nam Cộng hòa nhắm vào các căn cứ của lực lượng Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ở chiến khu C-vùng Lò Gò- Xa mát ngày nay (phía Việt Nam Cộng hòa gọi là vùng 3 chiến thuật) vào đầu năm 1967. Đây là cuộc hành quân lớn nhất của Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam - huy động 45.000 quân Mỹ và Việt Nam Cộng hoà và kéo dài từ 22 tháng 2 đến 15 tháng 4 năm 1967 - để đánh vào vùng của Việt Cộng nhưng đã thất bại.
Chiến dịch bắt đầu bằng một trong những cuộc đột kích bằng trực thăng qui mô nhất, 240 chiếc trên bầu trời tỉnh Tây Ninh. Mục đích của chiến dịch Junction City là phá hủy các căn cứ Việt Cộng và các cơ quan đầu não lãnh đạo đấu tranh ở Miền nam Việt Nam ở vùng chiến khu C phía bắc Sài Gòn. Quân đội Mỹ huy động 30 ngàn lính cho chiến dịch cùng 5 ngàn binh sĩ Việt Nam Cộng hòa. Sau 53 ngày chiến dịch, quân Mỹ thu được một lượng đáng kể vũ khí, đạn dược, lương thực, v.v. nhưng không kiếm được một trận đánh lớn nào với lực lượng Việt Cộng.
Mục lục |
[sửa] Diễn biến
[sửa] Tương quan lực lượng
- Về phía Mỹ và Việt Nam cộng hòa: Tổng số quân và thiết bị quân sự tham chiến là 45.000 quân; 300 máy bay lên thẳng; 3 phi đoàn máy bay vận tải... do tướng 3 sao Jonathan Simon, Tư lệnh Dã chiến II trực tiếp chỉ huy.
- Về phía Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam: Tổng lực lượng bao gồm chủ lực, địa phương quân, du kích các cơ quan là 10.000 tay súng, được phân chia theo từng tổ chiến đấu, ấp chiến đấu, xã chiến đấu... tinh thần là bám trụ bảo vệ từng cơ quan và địa bàn, sẵn sàng đánh trả khi có điều kiện. Lực lượng chủ lực được chia làm hai bộ phận, một bộ phận phân tán mỏng cùng với du kích các cơ quan lo bảo vệ các căn cứ, kho tàng; một bộ phận được ẩn dấu chờ đối phương sơ hở sẽ tổ chức phản công. Chỉ huy lực lượng chống càn do Lê Đức Anh, Tham mưu trưởng Quân giải phóng miền Nam đảm trách.
[sửa] Giai đoạn I
Giai đoạn này (từ ngày 22 tháng 2 đến ngày 15 tháng 3 năm 1967) hướng tiến công chủ yếu của chiến dịch là phía Bắc tỉnh Tây Ninh, mũi tập trung chính yếu nhắm vào khu vực nằm về phía Đông quốc lộ số 22, phía Tây tỉnh lộ số 4 (Tây Ninh đi Cà Tum), áp sát lên biên giới Campuchia. Vùng Tà Đạt là hợp điểm của cuộc hành quân.
Trước đó, từ ngày 2 tháng 2 đến ngày 21 tháng 2 năm 1967, lữ đoàn số 1 sư 25 Mỹ đánh vào mạn phía Tây đường số 22, áp lên biên giới Campuchia, mục đích của cuộc hành quân này là quét dọn vùng sông Vàm Cỏ Đông, lùa đối phương về hướng trung tâm (phía Đông lộ 22), hình thành bức tường phía Tây bởi các chốt chặn Cần Đăng, Tà Xia, Lò Gò, chuẩn bị thế tiến công và bao vây sẵn cho cuộc hành quân Junction City.
Ngày 22 tháng 2 năm 1967, mở màn cho chiến dịch là những trận tập kích bằng phi pháo vô cùng ác liệt, ngay sau đó máy bay C-130 chở lữ đoàn dù 173, nhảy xuống Cà Tum nằm trên tỉnh lộ số 4, nơi có ngả rẽ qua Bổ Túc, gần biên giới Campuchia (đây cũng là trận nhảy dù quy mô nhất trong Chiến tranh Việt Nam). Tiếp theo là 250 lần chiếc trực thăng chở lữ đoàn 1 và lữ đoàn 2 sư đoàn 1 "Anh cả đỏ" đổ bộ xuống Sóc Mới-Rùm Đuôn-An Khắc, nhằm khóa chặt biên giới Bắc Tây Ninh. Trong lúc đó lữ đoàn 2 sư đoàn 25 cùng với trung đoàn tăng thiết giáp số 11 của Mỹ từ Tây Ninh, theo đường số 4 tiến lên Đồng Pan, hợp với lữ dù 173 tại Cà Tum, bức tường phía Đông đã hình thành.
Sau hơn 10 ngày hành quân của chiến dịch, các tướng lĩnh chỉ huy đã phải thốt lên: Không tìm thấy chủ lực của Việt Cộng ở đâu[cần dẫn chứng], không bắt được một thành viên nào của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam... cuộc hành quân chỉ gặp phải toàn cạm bẫy như chông, mìn, lựu đạn gài. Du kích thì lúc ẩn lúc hiện không sao tiêu diệt được, những căn cứ mà binh sĩ Mỹ vào được thì trống rỗng, tịch thu được những thứ mà đối phương không kịp mang đi. Những khi dừng chân thì bị bắn tỉa, bị ném lựu đạn, bị phóng rocket... bệnh tật cũng bắt đầu hoành hành. Thương vong do cạm bẫy, quấy nhiễu của du kích và bệnh tật của rừng nhiệt đới làm cho lính Mỹ thiệt hại ngày càng tăng, trở nên lo sợ, không còn hăng hái lùng sục nữa. Các kế hoạch tác chiến ban đầu không thực hiện được tốt, việc hợp quân trên vùng trung tâm căn cứ Việt Cộng không thành công.
Hiểu rõ tình thế những mặt mạnh yếu trong những ngày chiến dịch Jonction City phát huy cao độ sức mạnh của nó, lực lượng chủ lực Quân giải phóng miền Nam (Sư đoàn 9), đã tập trung lại, luồn sâu vào vùng hậu cứ của cuộc hành quân để tổ chức phản công, cụ thể:
- Đêm 6 tháng 3, pháo binh Quân giải phóng bắn phá dữ dội vào cụm đóng quân Tà Xia và Truông Bình Linh.
- Đêm 10 tháng 3, tập kích vào hai cụm đóng quân Đồng Pan và Bào Cỏ.
Ngoài ra còn có nhiều trận phản công nhỏ lẻ và đặt mìn, phục kích trên các trục tiếp tế quan trọng, làm cho chiến dịch từ chủ động Tìm Diệt sang bị động đối phó và đi đến kết thúc giai đoạn I vào ngày 15 tháng 3 năm 1967, với một thành tích hoàn toàn không được khích lệ và vị tướng 3 sao Jonathan Simon bị mất quyền chỉ huy.
[sửa] Giai đoạn II
Giai đoạn II (từ 18 tháng 3 đến ngày 15 tháng 4 năm 1967), hướng tấn công chủ yếu của chiến dịch Junction City là mạn Đông tỉnh lộ số 4, được giới hạn bởi sông Sài Gòn, trọng tâm của chiến dịch nhằm về tuyến biên giới phía Đông-Bắc Cà Tum và tuyến thượng nguồn sông Sài Gòn, được B-52 rải thảm không hạn chế.
Tỉnh lộ 4 Tây Ninh đi Cà Tum, bây giờ là bức tường phía Tây của chiến dịch, các căn cứ Quản Lợi (Bình Long), Minh Thạnh (Núi Cát), Dầu Tiếng, Suối Đá (Tây Ninh); con đường số 13 huyết mạch kết hợp với các con đường 19, 22, 26 mới được sửa chữa, tạo thế tiến công từ phía Đông sang Tây. Lực lượng thiện chiến của các sư đoàn 1, sư đoàn 25, sư 4, 9... thì do máy bay trực thăng đổ bộ, hình thành các cụm căn cứ lớn khống chế biên giới Campuchia như Sóc Con Trăng, Đồng Rùm, Ba Vũng...
Khu vực này, trên thực tế là địa bàn xung yếu nằm trong hệ thống huyết mạch chính của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, nơi đây vừa là đầu cầu tiếp nhận viện trợ từ miền Bắc, vừa là nơi cất dấu hậu cần, khí tài, quân bị. Nơi đây còn là bàn đạp, để từ đó Quân giải phóng tiếp cận các chiến trường Nam Tây Nguyên và Đông Nam bộ.
Bước vào giai đoạn này, sức mạnh quân sự của Quân đội Mỹ và Quân lực Việt Nam Cộng hòa không hề suy giảm, thậm chí có phần gia tăng hơn, nhưng ý chí chiến thắng đối phương không còn như đợt ra quân ban đầu nữa. Trong khi đó về phía Quân giải phóng miền Nam, việc kết thúc Giai đoạn I của chiến dịch diễn ra gần đúng với dự kiến ban đầu: bảo đảm tuyệt đối an toàn cho Trung ương Cục miền Nam, Bộ Tư lệnh Miền, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam và các Ban Ngành Đoàn thể..., đặc biệt điều quan trọng bậc nhất là bảo toàn được lực lượng chủ lực của mình, do biết cất dấu kỹ. Do vượt qua được cột mốc thử thách trước sức mạnh Mỹ cộng với kinh nghiệm va chạm thực tiễn trong Giai đoạn I, Quân giải phóng miền Nam bước vào Giai đoạn II với khí thế tự tin hơn và bản lĩnh hơn.
Một số trận phản công đáng ghi nhận trong giai đoạn này:
- Mở màn là trận tập kích cứ điểm Đồng Rùm ngay đêm 20 tháng 3, sau 2 ngày khi Mỹ đổ quân chiếm đóng.
- Đêm 19 tháng 3, tại Bàu Bàng khi lữ đoàn 1 sư đoàn 9 Mỹ vừa tập kết chuẩn bị tham gia chiến dịch giai đoạn II, đã bị tấn công tại căn cứ.
- Đêm 31 tháng 3, tập kích căn cứ Ba Vũng.
Ngoài ra, cụm căn cứ Sóc Con Trăng bị bao vây uy hiếp, làm hạn chế sức đánh phá của căn cứ này. Các vùng hậu cứ của chiến dịch Junction City cũng bị pháo binh bắn phá như: Quản Lợi, Đồng Dù, Suối Đá. Chỉ huy sở của cuộc hành quân trú đóng tại Dầu Tiếng cũng bị pháo kích. Trên toàn mặt trận, sự kháng cự của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tỏ ra ngày càng mãnh liệt.
Từ 1 tháng 4, quân Mỹ bắt đầu triệt thoái từng bước, đến 15 tháng 4 năm 1967, quân đội Mỹ và Việt Nam Công hòa kết thúc chiến dịch với 53 ngày đêm tác chiến.
[sửa] Ghi nhận sau chiến dịch Junction City
[sửa] Về phía Quân đội Mỹ và Việt Nam Cộng hòa
- Sức mạnh về vũ khí, khí tài và lực lượng yểm trợ là vượt trội.
- Tinh thần chiến đấu của binh sĩ hơi tầm tầm bậc trung.
- Điểm yếu của Mỹ xuất phát từ sức mạnh vô địch mà quân đội Mỹ có được. Do mạnh nên không có kẻ đọ sức, vì vậy mà vào rừng, vào đến căn cứ cũng không tìm thấy đối phương. Còn đối phương thì có dịp hiểu rõ Mỹ hơn bao giờ hết.
[sửa] Về phía Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam
- Sức mạnh về quân sự nhỏ bé, nhưng biết dựa vào hệ thống hầm hào bí mật và địa hình rừng núi, bảo toàn lực lượng. Mở được mặt trận du kích chiến trên một địa bàn rộng lớn không dân cư sinh sống. Đây là yếu tố bất ngờ, góp phần phân tán sức mạnh quân sự của Mỹ, biết kiềm giữ và đeo bám làm tổn hao sinh lực đối phương.
- Tinh thần chịu đựng gian khổ và hy sinh trên mọi sự tưởng tượng.
- Điểm mạnh có được, nhờ biết rõ mình là kẻ yếu, thông tin tình báo chính xác.
[sửa] Ai thắng ai thua
- Xét về mục tiêu ban đầu là: Tiêu diệt chủ lực của đối phương, bắt sống hoặc tiêu diệt các các thành viên Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, triệt phá và chiếm đóng vùng thánh địa của Viêt Cộng..., tất cả những điều đó đều không thực hiện được.
- Một cuộc chiến rõ ràng không cân sức, Việt Cộng vượt qua được sức mạnh Mỹ do biết dụng thế vậy.
- Nếu cho là Quân đội Mỹ thắng thì Việt Cộng lấy đâu ra quân lính, vũ khí, hậu cần để làm cuộc tổng tấn công Mậu Thân năm 1968.
- Chiến dịch Junction City đầy tốn kém và đẫm máu cho cả hai bên, xem ra chẳng ai thắng, chẳng ai thua.