Dassault Rafale
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Dassault Rafale | |
---|---|
Kiểu | Máy bay chiến đấu đa nhiệm vụ |
Hãng sản xuất | Dassault Aviation |
Chuyến bay đầu tiên | 4 tháng 7-1986 |
Được giới thiệu | 4 tháng 12-2000 |
Tình trạng | Đang chế tạo |
Hãng sử dụng chính | Không quân Pháp Hải quân Pháp |
Chi phí dự án | 28 tỷ ơ-rô |
Chi phí máy bay | 48 triệu ơ-rô/chiếc |
Dassault Rafale là một máy bay chiến đấu đa nhiệm vụ cánh tam giác hai động cơ rất nhanh nhẹn của Pháp, được thiết kế và chế tạo bởi Dassault Aviation. Dassault đã sử dụng khái niệm 'Omni Role' (tất cả các nhiệm vụ) làm thuật ngữ tiếp thị nhằm phân biệt loại máy bay này với các loại máy bay chiến đấu 'đa nhiệm vụ' (multi-role) khác có phân biệt nhiệm vụ chính và các nhiệm vụ phụ khác. Dassault cũng sử dụng thuật ngữ này để chỉ khả năng chuyển từ nhiệm vụ này sang nhiệm vụ khác của Rafale trong từng phi vụ, dù thuật ngữ này mang nhiều ý nghĩa tóm gọn khả năng thực sự của Rafale thay thế được hoạt động của bảy loại máy bay khác nhau.
Rafale đang được chế tạo để sử dụng cho cả các căn cứ trên mặt đất của Không quân Pháp và trên tàu sân bay của Hải quân Pháp. Nó cũng đã được tiếp thị xuất khẩu, và tuy chưa có hợp đồng nào được ký kết, nhiều nước đã bày tỏ sự quan tâm tới Rafale.
Mục lục |
[sửa] Lịch sử
Giữa thập niên 1970, cả Không quân Pháp (Armée de l'Air) và Hải quân (Aéronavale) đều có nhu cầu về một loại máy bay mới (nhu cầu của Hải quân cấp bách hơn, chủ yếu để thay thế những chiếc Jaguar của Không quân và F-8 Crusader của Hải Quân), và nhu cầu khá giống nhau của cả hai phía đã được tổng hợp lại trong một dự án.
Chiếc máy bay trình diễn kỹ thuật Rafale A đã xuất xưởng năm 1985 và cất cánh lần đầu ngày 4 tháng 7 năm 1986, các động cơ SNECMA M88 đang được phát triển khi ấy không được coi là đủ tiêu chuẩn để đảm bảo những chuyến bay thử ở chương trình thử nghiệm đầu tiên diễn ra tuyệt đối an toàn (dù tình trạng phát triển của chúng thường bị đánh giá dưới mức), vì thế chiếc máy bay trình diễn kỹ thuật dùng động cơ tuốc bin cánh quạt có buồng đốt lần hai General Electric F404-GE-400 như được lắp trên chiếc F/A-18 Hornet. Cuộc trình diễn kỹ thuật đã gây ấn tượng tốt cho Bộ quốc phòng Pháp và chương trình đã nhận được đơn hàng sản xuất năm 1988.
Những cuộc thử nghiệm khác tiếp tục được tiến hành, gồm cả việc chạm-cất cánh (touch-and-go) trên tàu sân bay và thử nghiệm động cơ M88, trước khi Rafale A ngừng hoạt động năm 1994. Dù Rafale A và EAP hầu như có tính năng tương đương, khi chiếc Eurofighter đầu tiên cất cánh lần đầu tháng 3 năm 1994, những chiếc Rafales đã trãi qua qua ba năm thử nghiệm, gồm cả những lần thử trên tàu sân bay (Rafale C01 tháng 5 năm 1991, Rafale M01 tháng 12 năm 1991 và Rafale B01 tháng 4 năm 1993).
Ba phiên bản Rafale ở giai đoạn đặt hàng sản xuất đầu tiên:
- Rafale C (Chasseur) Máy bay chiến đấu một chỗ ngồi cho Không quân Pháp
- Rafale B (Biplace) Máy bay chiến đấu hai chỗ ngồi cho Không quân Pháp
- Rafale M (Marine) Máy bay chiến đấu một chỗ ngồi hoạt động trên tàu sân bay cho Hải quân Pháp
Nguyên mẫu Rafale C cất cánh năm 1991, chiếc đầu tiên trong hai nguyên mẫu Rafale M cất cánh muộn hơn năm đó, nguyên mẫu Rafale B cất cánh đầu năm 1993 và nguyên mẫu Rafale M thứ hai cất cánh muộn hơn cùng năm đó. Những cuộc thử nghiệm với máy phóng lần đầu được tiến hành trong khoảng thời gian từ ngày 13 tháng 7 tới ngày 23 tháng 8 năm 1992 tại các Căn cứ Không lực Hải quân Hoa Kỳ Lakehurst, New Jersey, và Patuxent River, Maryland, Hoa Kỳ; vì Pháp không có những cơ sở thử nghiệm máy phóng trên đất liền. Sau đó chiếc máy bay này đã trải qua các cuộc thử nghiệm trên boong tàu sân bay Foch.
Ban đầu dự kiến Rafale B chỉ là máy bay huấn luyện, nhưng kinh nghiệm của Chiến tranh Vùng Vịnh và chiến sự Kosovo cho thấy giá trị của phi công thứ hai trong tấn công và trinh sát, và vì thế có nhiều Rafale B được đặt hàng hơn thay cho Rafale C. Một quyết định tương tự được Hải quân đưa ra, ban đầu họ không hề đặt hàng những chiếc hai ghế ngồi; tuy nhiên chương trình đã bị dừng lại.
Sự không chắc chắn về mặt chính trị và kinh tế dẫn tới việc cho đến tận năm 1999 một phiên bản sản xuất Rafale M mới cất cánh.
Các lực lượng vũ trang Pháp từng được hy vọng sẽ đưa ra đơn đặt hàng 292 chiếc Rafale: 232 cho Không quân và 60 cho Hải quân. 120 chiếc đã được chính thức đặt hàng, chia làm ba đợt, đợt gần đây nhất là tháng 12 năm 2004 với 59 chiếc Rafale, dù Bộ quốc phòng Pháp đã cho biết con số này đang được xem xét lại và dường như sẽ bị cắt giảm chỉ còn 51 chiếc "với tổng giá giữ nguyên". Có thông tin ám chỉ rằng việc hy sinh từ 8 tới 12 chiếc máy bay sẽ "cho phép việc lắp đặt các cảm biến mới đã được các ngành công nghiệp Pháp phát triển cho gói này."
Phiên bản hải quân được ưu tiên bởi loại máy bay này được dự định thay thế cho những chiếc đã cũ, đặc biệt là máy bay chiến đấu Vought F-8 Crusader thiết kế từ 50 năm trước. Những cuộc giao hàng đã bắt đầu năm 2001 và nó 'đã đi vào hoạt động' ngày 4 tháng 12 năm 2000, dù phi đội đầu tiên, Flotille 12, thực tế chưa được cải tổ cho tới tận ngày 18 tháng 5 năm 2001. Đơn vị hoạt động trên tàu sân bay Charles de Gaulle năm 2002, đã ở tình trạng hoàn toàn sẵn sàng chiến đấu ngày 25 tháng 6 năm 2004, sau một cuộc thử nghiệm đánh giá hoạt động kỹ lưỡng, gồm cả nhiệm vụ hộ tống và tiếp dầu trên không trong Chiến dịch Tự do Vĩnh viễn (Operation Enduring Freedom) tại Afghanistan. Dù được giới hạn trong vai trò đối không và tầm hoạt động hạn chế của vũ khí, chiếc Rafale M được xem là một trong những loại máy bay chiến đấu tân tiến nhất đang hoạt động tại Châu Âu.
Không quân nhận được ba chiếc Rafale B đầu tiên (theo tiêu chuẩn F2) vào cuối tháng 12 năm 2004. Chúng được gửi đến CEAM ở Mont-de-Marsan để đánh giá hoạt động và huấn luyện chuyển loại phi công. Đơn vị máy bay chiến đấu đầu tiên của Không quân, Phi đội Escadron de Chasse 1/7 Provence, được thành lập tại St. Dizier trong năm 2006, những chậm trễ trong việc giao hàng đã buộc phi đội này phải dời ngày thành lập. Thời hạn sẵn sàng chiến đấu ban đầu được dự định vào tháng 9 năm 2006, nhưng hiện tại đã bị lùi lại đến giữa năm 2007, cho đến khi đáp ứng đủ hoàn toàn các tiêu chuẩn một chiếc máy bay đa nhiệm vụ tiêm kích-ném bom, trang bị tên lửa không đối không Mica, tên lửa hành trình Scalp EG ASMs, bom dẫn đường GPS, và bom laser LGB (dù LGB sẽ được chọn lựa sử dụng trên thiết bị khác hay bởi các hệ thống trên mặt đất).
[sửa] Biến thể
- Rafale A
- Đây là một chiếc máy bay trình diễn kỹ thuật cất cánh lần đầu năm 1986, như được miêu tả ở trên. Hiện nó đã ngừng hoạt động.
- Rafale D
- Dassault đã dùng định danh này (D là viết tắt của discret hay tàng hình) đầu thập niên 1990 cho các phiên bản chế tạo cho Armée de l'Air, để nhấn mạnh các tính năng bán tàng hình mà họ đã thêm vào cho kiểu thiết kế này. Nhiều nguồn tin đã thông báo rằng việc phát triển một hệ thống tàng hình tích cực, sẽ liên quan tới việc sử dụng một hệ thống sẽ phát ra các sóng "xóa dấu vết".[cần chú thích]
- Rafale B
- Đây là phiên bản hai chỗ ngồi cho Armée de l'Air; đã được giao hàng cho EC 330 năm 2004.
- Rafale C
- Đây là phiên bản một cho ngồi cho Armée de l'Air; đã giao hàng cho EC 330 tháng 6 năm 2004.
- Rafale M
- Đây là phiên bản hoạt động trên tàu sân bay cho Aéronavale, đã đi vào hoạt động năm 2002. Rafale M nặng hơn Rafale C 500 kg (1.100 lb). Bề ngoài rất giống Rafale C, những điểm khác biệt của phiên bản M là:
- Tăng sức khả năng đáp ứng với các điều kiện khắc nghiệt khi hoạt động trên tàu sân bay
- Bánh đáp vững chắc hơn
- Bánh đáp mũi dài hơn nâng cao mũi thích ứng khi sử dụng máy phóng
- Bỏ pylon giữa (để kéo dài bánh đáp trước)
- Móc đuôi lớn kiểu stinger giữa hai động cơ
- Thang lên buồng lái tích hợp vận hành bằng điện
- Hệ thống hạ cánh trên tàu sân bay bằng vi sóng
- Bệ quán tính "Telemir" có thể tương thích với các cải tiến của các hệ thống trên tàu sân bay.
- Rafale N
- Rafale N, trước kia được gọi là Rafale BM, được dự định là một phiên bản hai chỗ ngồi cho Aéronavale. Những khó khăn tài chính và chi phí huấn luyện tăng cao cho thêm một phi công nữa được coi là nguyên nhân dẫn tới việc nó bị hủy bỏ.
[sửa] Các hệ thống chiến đấu
Lần đầu tiên trong lịch sử hàng không, Rafale mang một hệ thống tồn tại điện tử tích hợp được đặt tên SPECTRA với tính năng tàng hình dựa trên kỹ thuật phần mềm ảo. Nhưng cảm biến quan trọng nhất là radar quét điện tử thụ động đa phương thức Thales RBE2. Thales tuyên bố đã đạt tới một mức độ nhận thức tình huống cao nhất từ trước tới nay thông qua việc thám sát và theo dõi sớm nhiều mục tiêu trên không cho cận chiến và can thiệp tầm xa, các bản đồ ba chiều thời gian thực cho việc theo dõi mặt đất, và các bản đồ thời gian thực độ phân giải cao mặt đất cho hoa tiêu và ngắm mục tiêu.
Tuy nhiên, trong những trường hợp cần sự điều khiển, Rafale có thể sử dụng nhiều hệ thống cảm biến thụ động:
hệ thống cảm biến điện quang học (electro optical system) phía trước (front-sector) hay Optroniques Secteur Frontal (OSF), do Thales phát triển, hoàn toàn được tích hợp bên trong máy bay và có thể hoạt động cả ở tầm sóng nhìn thấy được và sóng hồng ngoại.
Hệ thống chiến tranh điện tử SPECTRA, được hợp tác phát triển giữa Thales và EADS France, khiến chiếc máy bay có khả năng tổn tại cao nhất trước những mối đe dọa từ trên không và dưới mặt đất.[cần chú thích] Các đường nối dữ liệu thời gian thực cho phép máy bay không chỉ liên lạc với các máy bay khác, mà còn với các trung tâm chỉ huy và điều khiển cố định, di động dưới mặt đất. Khi nhiệm vụ đòi hỏi, Rafale cũng có thể dùng thiết bị chỉ định điện quang học/laser DAMOCLES khiến nó có đủ khả năng LGB đầy đủ trong cả điều kiện ban ngày lẫn ban đêm, dù Không quân hiện có kế hoạch sử dụng các vũ khí xa (stand off) cho Rafale và vai trò LGB cho những chiếc Mirage 2000.
Các hệ thống trung tâm của Rafale sử dụng một thiết bị Điện tử Modul Tích hợp (Integrated Modular Avionics - IMA), được gọi là Thiết bị Xử lý Dữ liệu Modul (Modular Data Processing Unit - MDPU). Cơ cấu này đảm nhận mọi chức năng chủ chốt của máy bay như một Hệ thống kiểm soát bay, Tổng hợp Dữ liệu, Kiểm soát bắn, Giao tiếp phi công-máy bay, vẫn vân..[1].
[sửa] Các cột mốc thời gian của chương trình
Các cột mốc thời gian gồm:
- 1983
- Tháng 4 - Dassault được trao hợp đồng chế tạo ACX (Rafale A) máy bay trình diễn kỹ thuật
- 1985
- Pháp chính thức rút khỏi chương trình Eurofighter, cam kết với dự án Rafale.
- 1986
- 4 Tháng 7 - Chuyến bay đầu tiên của Rafale A
- Tháng 12 – Phát triển động cơ SNECMA M88 bắt đầu
- 1988
- Tháng 4 – Đơn hàng đầu tiên được ký kết (cho nguyên mẫu Rafale C).
- 1990
- Tháng 2 - Những chuyến bay thử của M-88 bắt đầu
- 1991
- 19 Tháng 5 - Chuyến bay đầu tiên của nguyên mẫu một chỗ ngồi Armée de l'Air (Rafale C)
- 12 Tháng 12 - Chuyến bay đầu tiên của nguyên mẫu Aéronavale (Rafale M)
- 1992
- Chương trình thử nghiệm Rafale M trên tàu sân bay bắt đầu
- 1993
- Tháng 3 - Hợp đồng chế tạo đầu tiên được ký kết.
- Tháng 4 - Bắt đầu các cuộc thử nghiệm khả năng hoạt động trên tàu sân bay với Foch.
- Tháng 4 30 - Chuyến bay đầu tiên của nguyên mẫu (Rafale B) của Không quân
- 1995
- Tháng 6 - Tên lửa không đối không Mica đầu tiên được bắn đi từ Rafale theo phương thức tự dẫn đường.
- Tháng 7 - Hệ thống OSF và ngắm bắn/hiển thị trên mũ phi công được lắp đặt và thử nghiệm.
- September - Rafale M đã được thử nghiệm trên tàu sân bay (loạt thứ 4).
- Tháng 11 - Chuyến bay tầm xa không ngừng đầu tiên của Rafale B01 (3,020 hải lý trong dưới 6 giờ 30 phút).
-
- Tháng 10 - Cuộc thử nghiệm tính năng hoạt động trên tàu sân bay ở căn cứ mặt đất cuối cùng cho loạt Rafale M tại Hoa Kỳ.
- Tháng 12 - Lắp ráp thân kiểu sản xuất đầu tiên.
- 1996
- Tháng 3 - Động cơ M88 "flightworthiness" được kiểm nghiệm.
- Tháng 4 - Công việc chế tạo bị đình chỉ, tái khởi động tháng 1 năm 1997 sau nhiều lần giảm bớt chi phí.
- Tháng 5 - Những cuộc thử nghiệm cơ sở dữ liệu số mặt đất ở mức độ thấp.
- Tháng 7 - Việc tích hợp hệ thống chiến tranh điện tử Spectra được thử nghiệm trong phòng không vọng âm (anechoic chamber)
- Tháng 11 - Bay quang phổ được thử nghiệm.
- Tháng 12 - Chuyến giao hàng các động cơ loạt sản xuất đầu tiên.
- 1997
- Tháng 2 - Thử nghiệm bay Rafale B01 trong tình trạng chất tải nặng (2 Apache ASM, 3 2,000l thùng dầu phụ, 2 Magic và 2 tên lửa không đối không Mica).
- Tháng 5 - Tên lửa MICA đầu tiên được bắn theo phương thức dẫn đường quán tính.
- Tháng 6 - Thử nghiệm các hệ thống phản công quang phổ khi bay lần đầu.
- Tháng 10 - Radar RBE2 lần đầu được lắp đặt khi bay.
- Tháng 11 - Bắn các tên lửa theo phương thức dẫn đường quán tính vào hai mục tiêu, với kết nối máy bay-tên lửa và các biện pháp phản công.
- 1998
- Tháng 6 - Đánh giá hệ thống kiểm soát bắn MICA.
- Tháng 6 - Báo cáo tính năng hoạt động ban đầu do các phi công Hải quân và Không quân bay trên Rafale B01 và M02 đánh giá.
- 24 tháng 11 - Chuyến bay đầu tiên của phiên bản sản xuất Rafale (một chiếc Rafale B)
- 1999
- Tháng 5 - Lần thử nghiệm phóng tên lửa hành trình SCALP đầu tiên.
- 6 tháng 7 - Hạ cánh lần đầu trên boong tàu sân bay Charles de Gaulle.
- 7 tháng 7 - Chuyến bay đầu tiên của phiên bản sản xuất Rafale M
- 2000
- 20 tháng 7 - Chiếc Rafale M đầu tiên được giao cho Flotille 12F
- 2002
- Rafale M đi vào hoạt động tại 12F (Aeronavale, đánh giá)
- 2004
- Đi vào hoạt động hoàn toàn tại 12F (Hải quân)
- 3 tháng 9 chiếc Rafale B được giao cho CEAM, Mont de Marsan
- 9 tháng 9 - Lần thử nghiệm mang tên lửa Meteor GHTM (General Handling Training Missiles) đầu tiên với Rafale M từ CEV Istres
- 2005
- 11 tháng 9 - Lần thử nghiệm mang tên lửa Meteor GHTM với Rafale M từ tàu sân bay Charles de Gaulle.
- Mùa hè 2006
- Thành lập EC 1/7 với 8-10 máy bay
- Giữa năm 2007
- Tình trạng sẵn sàng hoạt động hoàn toàn (trong không quân) với EC7
[sửa] Các tiêu chuẩn
Những chiếc Rafale M giao hàng đầu tiên theo tiêu chuẩn F1 ("France 1"). Điều này có nghĩa chiếc máy bay phù hợp cho chiến đấu trên không, thay thế loại máy bay cũ kỹ F-8 Crusader trong vai trò máy bay hoạt động trên hàng không mẫu hạm của Không quân Hải quân, nhưng không được trang bị cho những nhiệm vụ không đối đất. Những lần giao hàng tiếp theo (cho Flotille 11 khoảng sau năm 2007) sẽ tuân theo tiêu chuẩn "F2", với khả năng chiến đấu không đối không, và thay thế Dassault Super Étendard trong vai trò tấn công mặt đất và Dassault Étendard IVP trong vai trò trinh sát. Điều này khiến Rafale M là chiếc máy bay cánh cứng duy nhất hoạt động trong Không quân hải quân, và các kế hoạch nhằm nâng cấp tất cả máy bay lên tiêu chuẩn "F3", với radar 3 chiều theo dõi mặt đất và khả năng mang vũ khí hạt nhân sẽ diễn ra vào đầu thập kỷ 2010.
Chiếc Rafale C đầu tiên được giao cho Armée de l'Air, tháng 6 năm 2005, theo tiêu chuẩn "F2", và nó có những kỹ thuật sẽ được áp dụng cải tiến cho những chiếc của hải quân trong tương lai. Rafale thay thế SEPECAT Jaguar, Mirage F1 và Mirage 2000 trong Không quân.
[sửa] Các nước sử dụng
Rafale hiện đang hoạt động với vai trò thử nghiệm và huấn luyện trong Không quân Pháp (CEAM/EC 5/330) và EC 1/7 tại St Dizier dự định sẽ nhận được một trung tâm 8-10 Rafale F2 trong mùa hè năm 2006, và theo kế hoạch sẽ hoàn toàn sẵn sàng hoạt động (với khả năng tấn công không đối không và không đối đất chính xác) vào giữa năm 2007 (khi EC 1/7 sẽ sở hữu khoảng 20 chiếc). Loại máy bay này hiện đang hoạt động hạn chế trong Hải quân Pháp (Flotille 12F) với vai trò không đối không, và đã trải qua nhiều cuộc thử nghiệm đánh giá khả năng không đối đất.
[sửa] Xuất khẩu
Chưa hợp đồng xuất khẩu nào được ký kết, dù loại máy bay này đã được xếp hạng cao trong một số cuộc thử nghiệm đánh giá. Nó gặp phải sự cạnh tranh dữ dội từ các nhà sản xuất máy bay Châu Âu và Hoa Kỳ với những đối thủ như Eurofighter Typhoon, JAS Gripen, F-16, F-15, và F-35. Ngoài ra, nó phải cạnh tranh cả với các mẫu thiết kế gần đây nhất của Nga như Su-27, Mikoyan MiG-29, cùng nhiều mẫu khác. Máy bay chiến đấu trước kia của Pháp, như loạt Mirage, đã chứng minh khả năng tốt trên thị trường xuất khẩu (và tiếp tục chứng tỏ như vậy) nhưng Rafale đã cho thấy nó là loại máy bay gặp khó khăn khi cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
[sửa] Hàn Quốc và Singapore
Rafale được lựa chọn đánh giá (cùng với F-15K) tại Hàn Quốc đầu năm 2002, nhưng đã bị loại khỏi cuộc cạnh tranh vào tháng 4 năm 2002. Dassault ngay lập tức đã đưa vụ việc ra trước một tòa án tại Seoul, về quy trình chọn lựa, mà họ coi là đã bị tác động để giành ưu thế cho phía Hoa Kỳ. Bộ quốc phòng Hàn Quốc đã trả lời rằng việc chọn lựa được tiến hành dựa trên những cơ sở về khả năng hoàn thành nhiều nhiệm vụ, sức chở, tầm chiến đấu, tính năng thao diễn và minh chứng khả năng chiến đấu của F-15K và mẫu phát triển F-15E của nó.
Dù có sự trích dẫn đã bị bóp méo cho rằng tờ The Korea Times đã đưa tin Rafale thao diễn vượt xa F-15(ngoại trừ đoạn trích : "Ở thời điểm ấy, Dassault đã buộc tội chính phủ Hàn Quốc ưu ái hơn cho nhà sản xuất máy bay Hoa Kỳ khi cân nhắc tới đồng minh quân sự của mình, dù chiếc Rafale của họ đã thao diễn vượt trội so với F-15K trong cuộc kiểm trả khả năng thao diễn đầu tiên.", 14 tháng 12 năm 2005, Jung Sung-ki), rõ ràng chiếc F-15 đã chứng minh khả năng vượt trội ở nhiều khía cạnh căn bản. Ví dụ, tốc độ tối đa của Rafale được đưa ra là Mach 1.8 (2,130 km/h, 1,320 mph) và với chiếc Strike Eagle là Mach 2.54 (2,698 km/h, 1,665 mph). Tầm hoạt động của Rafale 1,100 dặm (1,800 km, 970 hải lý), và 2,400 dặm (3,900 km) với Strike Eagle.
Tháng 8 năm 2005, Singapore đã lựa chọn F-15SG của Boeing sau một cuộc thi trực tiếp với Rafale. Typhoon cũng đã bị loại khỏi cuộc đua vào tháng 6 năm 2005. Số lượng đặt hàng nhỏ với loại F-15T (F-15SG) vẫn để mở khả năng đặt hàng thêm nữa, có lẽ cho một kiểu máy bay thứ hai.
[sửa] Khác
Không quân Pakistan trong năm 2003 đã bày tỏ sự quan tâm tới loại máy bay này và theo thông báo rất ấn tượng với các thanh điều khiển bay kép kiểu F-16 của nó, các phi công Không quân Pakistan rất quen thuộc với kiểu thanh điều khiển này. Chẳng bao lâu sau Không quân Pakistan đã không còn có sự quan tâm chính thức tới Rafale nữa bởi họ đã cảm thấy hài lòng với những chiếc F-16, J-10 & JF-17. Tuy nhiên EADS tiếp tục coi Pakistan là một khách hàng tiềm năng của Eurofighter;[1] điều này cho thấy Không quân Pakistan có thể nhanh chóng chuyển hướng nhu cầu sang một loại máy bay chiến đấu thế hệ 4.5 và Rafale cũng có thể tham gia.
Tuy nhiên, theo một số tờ báo (gồm có Flight Daily News và tờ tin công nghiệp uy tín Defence Analysis), dù Rafale 'sống lâu hơn' Typhoon trong cả hai lần cạnh tranh, việc máy bay Eurofighter bị từ chối tại Singapore vì các lý do kỹ thuật, và thực tế Rafale không hề được đội đánh giá kỹ thuật, những người đã lựa chọn nó ưa thích.
Nhiều quốc gia khác cũng đã bày tỏ sự quan tâm tới việc mua Rafale, gồm cả Ấn Độ,[2] nơi loại máy bay Mirage 2000 đang trông đợi được đặt hàng thêm, trước khi dây chuyền sản xuất loại máy bay này đóng cửa, và vì thế cũng là nơi có vẻ thích hợp với Rafale. Ấn Độ đang tìm kiếm thêm 126 chiếc máy bay chiến đấu đa nhiệm vụ và tấn công nữa. Tuy vậy Rafale sẽ phải cạnh tranh với MiG-29 OVT (MiG-35), F-16, F-18, và các loại khác.
Tháng 1 năm 2006, tờ Journal du Dimanche của Pháp đã thông báo rằng Libya muốn đặt hàng 13-18 chiếc Rafales "trong một hợp đồng trị giá 3.24 tỷ dollar" [2].
Tháng 2 năm 2007, có thông báo cho rằng Thụy Sĩ đang xem xét "Rafale" cùng các loại máy bay khác để thay thế những chiếc F-5E Tiger II của họ.("Le Temps", 13th February 2007)
[sửa] Chi phí
- Tổng chi phí chương trình 28 tỷ Euro.
- Mỗi chiếc trong chương trình này có giá xấp xỉ 95.000.000 Euro.
- Chi phí hệ thống 600 triệu Franc (€91m) €88m (gồm cả chi phí phát triển cho mỗi chiếc).
- Giá xuất xưởng (2000) 310 triệu Franc €47m (phiên bản không quân).
- 325 triệu Franc €49m (phiên bản hải quân).
[sửa] Tiêu chuẩn kỹ thuật
[sửa] Đặc điểm chung
- Đội bay: 1-2
- Chiều dài : 15,27 m (50,1 ft)
- Sải cánh : 10,80 m (35,4 ft)
- Chiều cao : 5,34 m (17,4 ft)
- Diện tích cánh: 45.7 m² (492 ft²)
- Trọng lượng không tải : 9.060 kg (20.000 lb)
- Trọng lượng có tải: 9.500 kg (21.000 lb)
- Trọng lượng cất cánh tối đa : 24.500 kg (54.000 lb)
- Động cơ : 2 x SNECMA M88-2 tuốc bin cánh quạt lực đẩy có đốt sau: 75 kN (17.000 lbf)
[sửa] Đặc tính bay
- Tốc độ tối đa : >Mach 2 (2.250 km/h)
- Tầm hoạt động : 1.800 km (970 nm, 1.100 mi)
- Trần bay : 18.000 m (60.000 ft)
- Tốc độ lên cao : 333 m/s (65.600 ft/min)
- Áp lực cánh: 326 kg/m² (83 1/3 lb/ft²)
- Lực đẩy/trọng lượng: 1.13
[sửa] Radar dẫn đường
- Điện tử:
- Radar Thales RBE2
- Hệ thống chiến tranh điện tử Thales Spectra.
- Thales/SAGEM OSF (Optronique Secteur Frontal) Hệ thống tìm kiếm và thám sát hồng ngoại.
[sửa] Vũ khí
Trên 8000 kg vũ khí, bao gồm:
- Súng: 1× pháo 30 mm (1.18 in) GIAT 30/719B với 125 viên đạn
- Tên lửa:
- Không đối không:
- MICA IR/EM hay
- AIM-9 Sidewinder hay
- AIM-132 ASRAAM hay
- AIM-120 AMRAAM hay
- MBDA Meteor hay
- Magic II
- Không đối đất:
- MBDA Apache hay
- SCALP EG hay
- AASM hay
- AM 39 Exocet hay
- Tên lửa hạt nhân ASMP
- Không đối không:
[sửa] Tham khảo
- ^ "Austria prepares to dump Eurofighter order" Guardian Unlimited 06 October 2006
- ^ “India to shop for more combat aircraft”, Hindustan Times, 2006-02-26. Địa chỉ URL được truy cập 2006-09-10.
- “French Fusion”, Flight Daily News, 2005-06-14. Địa chỉ URL được truy cập 2005-08-30.
- Fredriksson, Urban (2006-08-02). "Fighter non-comparison table". Được truy cập ngày 2006-09-10.
- “Fighter improvements follow Singapore defeat”, Flight Daily News, 2006-02-23. Địa chỉ URL được truy cập 2006-09-10.
- “Typhoon hit by Singapore”, Flight Daily News, 2005-06-13. Địa chỉ URL được truy cập 2006-09-10.
- “Mirage 2000s Withdrawn As India's MRCA Fighter Competition Changes”, Defense Industry Daily, 2006-03-08. Địa chỉ URL được truy cập 2006-09-10.
[sửa] Liên kết ngoài
- Dassault official website
- Air Combat Information Group, Dassault Rafale by Vineet Srivastava
- Air Combat aircraft, Dassault Rafale
- DASSAULT RAFALE from Greg Goebel's IN THE PUBLIC DOMAIN
- Dassault Rafale Information
- SPECTRA SYSTEM, Dassault Rafale
- Dassault Rafale on Air Force Technology
[sửa] Chủ đề liên quan
- Máy bay có tính năng tương tự
- Chengdu J-10
- Eurofighter Typhoon
- F-35 Lightning II
- Saab Gripen
- HAL Tejas
- Sukhoi Su-30 MKI
- Danh sách tiếp theo
- Mirage G - Mirage 2000 - Mirage 4000 - Rafale - nEUROn
- Danh sách liên quan
- Danh sách máy bay chiến đấu
- Danh sách máy bay quân sự Pháp
|
|
---|---|
Tổng thể | Thời gian biểu hàng không · Máy bay · Hãng chế tạo máy bay · Động cơ máy bay · Hãng chế tạo động cơ máy bay · Sân bay · Hãng hàng không |
Quân sự | Không quân · Vũ khí máy bay · Tên lửa · Phương tiện bay không người lái (UAV) · Máy bay thử nghiệm |
Biến cố và tai nạn |
Hàng không quân sự · Hàng không dân dụng · Hoạt động hàng không chung · Thiệt hại nhân mạng liên quan đến hàng không |
Kỷ lục | Kỷ lục tốc độ bay · Kỷ lục quãng đường bay · Kỷ lục bay cao · Kỷ lục thời gian bay · Máy bay sản xuất với số lượng lớn |