See also ebooksgratis.com: no banners, no cookies, totally FREE.

CLASSICISTRANIERI HOME PAGE - YOUTUBE CHANNEL
Privacy Policy Cookie Policy Terms and Conditions
Chiến dịch Khalkhyn Gol – Wikipedia tiếng Việt

Chiến dịch Khalkhyn Gol

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Chiến dịch Khalkhyn Gol
Một phần của Chiến tranh biên giới Xô-Nhật, 1939
.
Thiết giáp BA-10 của Liên Xô bị bắn cháy
Thời gian 11 tháng 5 - 16 tháng 9, 1939
Địa điểm Khalkhyn Gol, Mông Cổ
Kết quả Chiến thắng quan trọng của Liên Xô
Tham chiến
Liên Xô
Mông Cổ
Cờ Nhật Bản Đế quốc Nhật Bản
Mãn Châu quốc
Chỉ huy
Georgy Zhukov Cờ Nhật Bản Michitarō Komatsubara
Lực lượng
57,000 quân 30,000
Thương vong
Theo Liên Xô
7,974 người chết,
15,251 bị thương[1]
Nhật tuyên bố:
8,440 người chết,
8,766 bị thương
Liên Xô tuyên bố
60,000 người chết và bị thương,
3,000 bị bắt[2]

Chiến dịch Khalkhyn Gol (trong một số tài liệu gọi là sông Halhin[1]) (Tiếng Nga: бои на реке Халхин-Гол; Tiếng Mông Cổ:Халхын голын байлдаан; Tiếng Nhật: ノモンハン事件 Nomonhan jiken-- Sự kiện Nomonhan, Tiếng Việt còn đọc là : Chiến dịch Khan-Khin Gôn) là trận giao tranh nhưng không tuyên bố trong Chiến tranh biên giới Xô-Nhật năm 1939. Tên trận đánh được đặt theo tên dòng sông Khalkhyn Gol chảy qua giwuxa chiến trường. Trong tiếng Nhật, nó có tên làSự kiện Nomonhan hay sự kiện Nặc Môn Khan[2], tên một ngôi làng gần biên giới giữa Mông Cổ và Mãn Châu quốc.

Chiến dịch Khalkhyn Gol không phải là trận đánh năm 1945 khi Liên Xô mở Chiến dịch Bão tháng Tám tại mãn Châu.

Mục lục

[sửa] Hoàn cảnh

Sau khi hoàn tất đánh chiếm bán đảo Triều Tiên và dụng nên nhà nước bù nhìn Mãn Châu, cộng thêm tình hình châu Âu lúc đó đang căng thẳng cùng với việc Liên Xô đang bận đối phó ở châu Âu, quân đội Nhật lại tấn công vào lãnh thổ Cộng hòa nhân dân Mông Cổ tại khu vực sông Khalkhyn Gol. Trước đó quân đội Nhật từng tấn công vào lãnh Liên Xô tại khu vực hồ Khasan vào tháng 7-1938. Nhưng chỉ trong mấy ngày, quân xâm lược bị đánh bại thảm hại và phải ký kết hiệp định chấm dứt cuộc xâm lược. Quân đội cả hai phía đều triển khai dọc biên giới và đước đặt trong tình trạng báo động cao.

Năm 1939, Nhật thành lập nhà nước bù nhìn Mãn Châu, và phía Nhật lấy sông Khalkhyn Gol làm ranh giới giữa Mãn Châu và Cộng hòa nhân dân Mông Cổ. Đáp lại, Cộng hòa nhân dân Mông Cổ và đồng minh Liên Xô tuyên bố rằng biên giới cách dòng sông 16km (10 dặm) về phía đông của dòng sông, ngay phía đông làng Nomonhan.[3]

Lực lượng quân đội chủ yếu của chính phủ Mãn Châu là Đạo quân Quan Đông của Nhật, bao gồm một số đơn vị lính tinh nhuệ của Nhật Bản, ngoài ra còn có sư đoàn IJA 23 đồn trú tại vùng phía tây Mãn Châu gần sông Hailar, một nhánh sông Amur dưới sự chỉ huy của tướng Michitarō Komatsubara và một số sĩ quan quân đội Mãn Châu và một số đơn vị biên phòng Mãn Châu.

Lực lượng của phía Liên Xô bao gồm Sư đoàn đặc biệt số 57 đồn trú tại Quân khu Trans-Baikal với nhiệm vụ bảo vệ biên giới giữa Siberia và Mãn Châu. Noài ra còn có một số đơn vị nhỏ của Mông Cổ.

[sửa] Tháng 5, 6 và 7

Sự kiện bắt nguồn từ cuộc giao tranh nhỏ vào ngày 11 tháng 5 năm 1939. Một đơn vị kị binh Mông cổ gồm khoảng 70-90 người đi vào khu vực tranh chấp để đi tìm ngựa của họ. Một đơn kị binh Mãn Châu tấn công và buộc họ quay trở lại bờ kia sông Khalkhin Gol. Hai ngày sau, quân Mông Cổ phản công với lực lương đông hơn hẳn và quân Mãn châu phải bỏ chạy.

Ngày 14, Thiếu tá Yaozo Azuma đưa trung đoàn trinh sát số 23, được hỗ trợ bởi trung đoàn số 64 trực thuộc sư đoàn cung tên dưới sự chỉ huy của đại tá Takemitsu Yamagata, vào vùng tranh chấp. Song sau khi có quân Liên Xô tiếp viện, quân Mông Cổ tấn công quân Nhật song không thể đánh lùi quân đội phát xít. Tổ chức lại lực lượng, liên quân Liên Xô - Mông Cổ tiến hành bao vây và tiêu diệt quân đội Nhật vào 28 tháng 5. Quân Nhật chết 97 người, bị thương 33 người, chiếm 63% thương vong.

VÀo ngày 27 tháng 6, quân Nhật bắt đầu những trận không kích. Lữ đoàn không quân số 2 của Nhật ném bom căn cứ không quân của Liên Xô tại Tamsak-Bulak, Mông Cổ. Quân Nhật giành phần thắng, số máy bay của Liên Xô bị phá hủy nhiều hơn hai lần số máy bay Nhật bị bắn hạ, song cuộc tấn công này do đạo quân Quan Đông tự ý tổ chức chứ không được Bộ chỉ huy quân đội Đế quốc Nhật Bản tại Tokyo cho phép. Ngay lập tức, Tokyo cấm Không quân Nhật Bản thực hiện thêm bất cứ cuộc không kích nào.[4]

Vào tháng 6, chỉ huy mới của Hồng Quân Liên Xô được điều động tới: Trung tướng Georgi Zhukov[4]. Trong tháng 6, theo nhiều tài liệu và báo cáo, thì xung đột giữa hai bờ sông vẫn diễn ra. Cuối tháng 6, chỉ huy sư đoàn số 23 của Nhật, Trung tướng Michitarō Komatsubara, được phép "trục xuất bọn xâm lược". Quân Nhật đề ra kế hoạch tấn công theo hai hướng. Ba trung đoàn vào một nhóm, bao gồm ba trung đoàn từ sư đoàn số 23 - trung đoàn bộ binh 71 và 72, nhập vào một tiểu đoàn của trung đoàn bộ binh số 64; và trung đoàn bộ binh số 26th sẽ do Đại tá Shinichiro Sumi, "mượn từ" sư đoàn số 7, sẽ nhanh chóng vượt sông Khalkin Gol, tiêu diệt liên quân quân Liên Xô-Mông Cổ tại đồi Baintsagan phía bờ Tây rồi rẽ ngoặt về phía trái, mau chóng đi về phía nam tới cầu Kawatama. Mũi thứ hai bao gồm trung đoàn tăng số 3 và 4, cộng thêm một phần của trung đoàn số 64, một tiểu đoàn của trung đoàn bộ binh số 28 được tách ra từ sư đoàn số 7, trung đoàn công binh số 24, và một tiểu đoàn của trung đoàn pháo binh số 13, do trung tướng Yasuoka Masaomi chỉ huy. Mũi tiến công này có nhiệm vụ tấn công quân Liên Xô tại bờ đông sông Khalkhyn Gol và phía nam sông Holsten. Hai mũi tiến công của quân Nhật sẽ gặp nhau tại hậu phương của quân Liên Xô và bao vây họ.

Mũi tiến công phía bắc vượt sông Khalkhyn Gol một cách dễ dàng, tập kích quân Liên Xô tại đồi Baintsagan, và mau chóng tiến về phía nam dọc theo bờ tây con sông. Tuy nhiên, tướng Zhukov nhận thấy được mối nguy hiểm, ông tổ chức phản công với 450 xe tăng và xe bọc thép. Lực lượng cơ giới của Liên Xố, dù không có bộ binh yểm trợ, vẫn tấn công quân Nhật và gần như bao vây được chúng. Quân Nhật mũi phía bắc bị mất đường tiếp viên, do chỉ có duy nhất một chiếc cầu phao bắc qua sông để tiếp viện (và hầu hết kỹ sư cầu đường của Nhật được điều đi để tham gia Chiến tranh Trung-Nhật), và buộc phải đầu hàng, quay trở lại bờ bên kia vào 5 tháng 7. Trong lúc đó mũi tiến công của Nhật ở phía Nam bất thần tấn công vào đêm 2 tháng 7, để tránh pháo binh Liên Xô đang ở khhu đất cao phí bờ tây sông Khalkhyn Gol. Tuy nhiên quân Nhật mất một nửa quân số của lực lượng cơ giới, và vẫn không phá vỡ nổi phòng tuyến của quân Liên Xô phía bờ tây cũng như không thể tới được cầu Kawatama. [5][6] Sau trận phản công của quân Liên Xô vào ngày 9 tháng 7, quân Nhật ở mũi tiến công độc lập này do Yasuoka chỉ huy bị xóa sổ.[7]

Quân đội hai bên tiếp tục giao tranh thêm hơn hai tuần nữa, dọc theo 4 km bờ phía đông của sông Khalkhyn Gol cho tới chỗ bó đổ vào sông Holsten.[8] Quân của Zhukov đã rời căn cứ 465 dặm nên ông phải thành lập đội xe vận tải để tiếp viện gồm 2600 chiếc, trong khi quân Nhật gặp phải vấn đề tiếp viện vì thiếu xe vận tải.[4] Ngày 23 tháng 7, quân Nhật mở một cuộc tấn công quy mô lớn, sử dụng hai sư đoàn số 64 và 72 để tấn công quân Liên Xô đang bảo vệ cầu the Kawatama. Các đơn vị pháo binh Nhật pháo kích dồn dập vào các vị trí của Liên Xô nên một nửa chỗ đạn dự trữ đem theo hết chỉ trong 2 ngày.[9] Cuộc tấn công đạt một số kết quả, song quân Nhật không thể nào phá vỡ phòng tuyến của quân Liên xô và không thể tới được cầu. Quân Nhật buộc phải ngừng tấn công vì thương vong quá nhiều và hết đạn pháo, và lâm vào thế "tiến thoái lưỡng nan".

[sửa] Tháng 8: Trận phản công của tướng Zhukov

Quân Nhật tập hợp lại, và chuẩn bị một cuộc tấn công lớn nhằm vào quân đội Xô Viết vào 24 tháng 8.[4] Nhưng chúng không có cơ hội đó. Tướng Zhukov tập trung quân lại, thành lập một mũi tiến công lớn bao gồm 3 lữ đoàn xe tăng (số 4, 6 và 11), hai lữ đoàn cơ giới (số 7 và 8, bao gồm xe bọc thép và có sự yểm trợ của bộ binh). Lực lượng này được đưa vào cánh trái và cánh phải của quân đội Liên Xô. Tổng cộng, tướng Zhukov đã điều động 3 sư đoàn súng trường, 2 sư đoàn xe tăng và thêm hai lữ đoàn xe tăng độc lập (tổng cộng là 498 xe tăng), hai sư đoàn bộ binh cơ giới, ngoài ra tướng Zhukov còn điều động lực lượng không quân gồm 250 máy bay tiêm kích và nám bom. Hai sư đoàn kị binh Mông Cổ cũng tham gia trận đánh.[10][11][12] Về phía quân Quan Đông, chỉ có 2 sư đoàn thiết giáp hạng nhẹ thuộc sư đoàn số 23 của trung tướng Michitarō Komatsubara, cách trận đánh hơn 100 dặm. Hơn nữa, tướng Zhukov đã tổ chức những hoạt động ngụy trang khéo léo nhằm che dấu các hoạt động chuẩn bị của quân đội Xô-Mông. Những cuộc điện đàm qua điện thoại, những mật mã đơn giản, những cẩm nang phòng thủ,... mà phía Liên Xô cố tình cho Nhật nghe đều đề cập đến việc phòng ngự. Quân đội Liên Xô còn tạo ra những tiếng động như tiếng đóng cừ trong việc xây dựng thành lũy, tiếng máy bay cất cánh, xe tăng chuyển động,... để quân Nhật nghe tới nhàm tai, không còn để ý tới các tiếng động thật. Còn những tin tức "thật" như kế hoạch tác chiến đều do các sĩ quan tác chiến, tham mưu trưởng,... tự soạn lấy. Những văn bản "thật" chỉ do một người duy nhất đánh máy.[3]. Kết quả là quân Nhật hoàn toàn tin tưởng là liên quân Xô-Mông đang tổ chức phòng ngự, trong khi thật sự các họ đang chuẩn bị các đơn vị mạnh nhằm "đánh cho gãy xương sống quân Nhật" (chỉ thị của Stalin). Tình báo của Nhật Bản hoàn toàn thất bại trong việc phát hiện quân Liên Xô được tổ chức lại.[13]

Ngày 20 tháng 8, trước 4 ngày khi quân Nhật dự tính tấn công là chủ nhật, thế là quân Nhật cho nhiều tướng tá nghỉ phép. Vì vậy, Zhukov quyết định đã tới lúc để tấn công.

Xe tăng Type 95 Ha-Go của Nhật - Hồng quân Liên Xô chiếm được trong trận đánh
Xe tăng Type 95 Ha-Go của Nhật - Hồng quân Liên Xô chiếm được trong trận đánh

Lúc 5 giờ 45 phút sáng, pháo binh Liên Xô bắt đầu khai hỏa. Sau đó là 150 máy bay ném bom bảo vệ bởi 100 máy bay chiến đấu tiến hành không tập. Sau 3 giờ oanh tạc dữ dội bằng đại bác và phi cơ, xấp xỉ 50,000 quân của liên quân Liên Xô-Mông Cổ thuộc quân đoàn đặc biệt số 57 bảo về bờ đông sông Khalkhyn Gol, rồi vượt sông vào 20 tháng 8 để tấn công quân Nhật với ba trung đoàn bộ binh, pháo, một lữ đoàn xe tăng và một số máy bay tốt nhất của Không quân Xô Viết. [4] Khi phòng tuyến quân Nhật bị chọc thủng, các đơn vị cơ giới Liên Xô đánh dọc sườn của quân Nhật, cắt đứt đường liên lạc của chúng. Quân Nhật không thể kháng cự lại (trừ một sĩ quan Nhật rút gươm ra và chạy bộ tới tấn công xe tăng của Liên Xô!)[14]. Khi hai cánh quân của tướng Zhukov tới làng Nomonhan vào ngày 25, sư đoàn 23 của Nhtaaj bị bao vây.[15][4][16] Vào 26 tháng 8, cuộc tấn công để giải vây cho sư đoàn 23 của Nhật bị đánh bại. Khi quân Nhật cương quyết không đầu hàng, tướng Zhukov xóa sổ chúng bằng nhứng trận pháo kích và không kích. Trận chiến kết thúc vào ngày 31 tháng 8, quân Nhật bị tiêu diệt. Số sống sót tháo chạy về phía đông Nomonhan.

Sau khi tướng Zhukov hoàn toàn tiêu diệt sư đoàn số 23 của Nhật, một sự kiện khác diễn ra cách đó hàng ngàn dặm về phía Tây. Ngay hôm sau, 1 tháng 9 năm 1939, Adolf Hitler bắt đầu xâm lược Ba Lan và Chiến tranh thế giới thứ Hai bùng nổ ở chây Âu. Liên Xô đã ký Hiệp ước Xô-Đức (hay còn gọi là Hiệp ước Molotov – Ribentrop), và Hồng quân tấn công Ba Lan, LatviaEstonia. Có lẽ do nhiệm vụ mà Stalin đề ra cho quân đội Liên Xô ở Đông Âu, quân đội Liên Xô không tiến xa hơn nữa vào biên giới của Mãn Châu quốc. Liên Xô và Nhật ký một hiệp định ngứng bắn và nó có hiệu lực ngay những ngày sau đó.[4] Stalin, không còn lo lắng gì nữa về vấn đề biên giới phía đông nên "rảnh tay" để tấn công Ba Lan vào năm 1939, bắt đầu từ 17 tháng 9.[17]

[sửa] Kết quả

Có nhiều tài liệu thông bóa về con số thương vong khác nhau: Một số tài liệu nói rằng quân Nhật mất 45,000 người và Liên Xô là 17,000,[4]. Phía Nhật thông báo chính thức rằng họ mất 8,440 người, bị thương 8,766 người, trong khi lúc dầu Liên Xô khẳng định con số thương vong tổng cộng là là 9,284 người. Có vẻ như nó là con số quá ít so với thực tế, và người Nhật không hề muốn kết quả của cuộc chiến ảnh hưởng tới tâm lý của binh sĩ Nhật. Tuy nhiên có một điều chắc chắn là trận thua nhục nhã này khiến hai viên tư lệnh và tham mưu trưởng của đạo quân Quan Đông từ chức, và đông đảo sĩ quan Nhật tham ga chiến dịch đua nhau mổ bụng tự sát.[5] Trong những năm gần đây, nhiều tài liệu mật của Liên Xô được công bố, con số chính xác hơn về số binh sĩ Liên Xô thiệt mạng là 7,974 người, số bị thương là 15,251 người.[1] Một cuộc nghiên cứu tương tự về phía Nhật Bản vừa mới được bắt đầu.

Mặc dù rất ít ai biết được trận chiến này, song nó vẫn quan hệ mật thiết với Chiến tranh thế giới thứ Hai. Nó được coi là trận đánh mang tính quyết định của Chiến tranh thế giới thứ Hai, bởi lẽ hai nước đầu sỏ của Trục Phát xít, Đức và Nhật, về mặt địa lý không bao giờ có thể liên kết được với nhau, vì Liên Xô nằm ở giữa. Thất bại này khiến Chỉ huy quân đội Đế quốc Nhật Bản phải chuyển hướng tấn công về phía nam, tăng cường phát triển hải quân, và sau đó là trận Trân Châu Cảng hai năm rưỡi sau, tháng 12 năm 1941. Quân đội Nhật không còn nuôi ý định tấn công Liên Xô lần nữa. Năm 1941, hai nước ký hiệp ước phân định biên giới của Cộng hòa nhân dân Mông Cổ và Mãn Châu quốc,[18] giữ quan hệ trung lập với nhau.[19] "Hòa bình" được duy trì tới khi Hồng quân mở Chiến dịch Bão tháng Tám và quân đội Liên Xô xóa sổ Mãn Châu quốc vào tháng 8 năm 1945, trong những tuần cuối cùng của cuộc chiến.

Đây là chiến thắng đầu tiên của "con-người-sớm-trở-nên-nổi-tiếng", Nguyên soái Georgy Zhukov, và ông được trao tặng 4 danh hiệu Anh hùng Liên Xô. Zhukov được điều về quân khu Kiev. Những kinh nghiệm từ trận chiến này này giúp Nguyên soái Zhukov tổ chức phản công thằng lợi, bảo vệ được "thủ đô Cộng sản" trong Chiến dịch bảo vệ Moskva, 1941, và sau đó là Trận phản công Stalingrad. Quân đội Liên Xô dồn về phía Tây khi trùm tình báo Liên Xô Richard Sorge ở Tokyo đã thông báo rằng quân đội phát xít Nhật sẽ không bao giờ dám tấn công Liên Xô nữa, và điều đó là đúng vì quân đội Nhật không muốn chuôc thêm bất cứ thất bại thê thảm nào ở vùng biên giới giáp Liên Xô.

Thị trấn Choibalsan của Mông Cổ, thuộc tỉnh Dornod - nơi trận đánh diển ra, có một bảo tàng mang tên "G.K. Zhukov Museum", được dùng chỉ để trung bày hiện vật của Zhukov và trận đánh năm 1939.[20]

[sửa] Chú thích

  1. ^ a b "Grif sekretnosti sniat': poteri Vooruzhennykh Sil SSSR v voynakh, boevykh deystviyakh i voennykh konfliktakh", pod oshchey redaktsiey G. F. Krivosheeva. (Moskva: Voennoe izd-vo, 1993, ISBN 5203014000). pp. 77-85.
  2. ^ Glantz, David M., and Jonathan House. When Titans Clashed: How the Red Army Stopped Hitler. (Lawrence, Kansas: UP of Kansas, 1995. ISBN-0700608990 p. 14)
  3. ^ Drea, Edward J. http://www-cgsc.army.mil/carl/resources/csi/drea2/Maps.html "Leavenworth Papers No. 2 Nomonhan: Japanese Soviet Tactical Combat, 1939 - MAPS" - Retrieved: May 13, 2007.
  4. ^ a b c d e f g Timothy Neeno, M.A. http://www.militaryhistoryonline.com/20thcentury/articles/nomonhan.aspx Nomonhan: The Second Russo-Japanese War, 2005. - Retrieved: May 12, 2007.
  5. ^ Combined Arms Research Library
  6. ^ Drea, Edward J. http://www-http://www-cgsc.army.mil/carl/resources/csi/drea2/BigMaps.html#map4 "Leavenworth Papers No. 2 Nomonhan: Japanese Soviet Tactical Combat, 1939 - BIG MAPS - Map 4" - Retrieved: May 13, 2007.
  7. ^ Combined Arms Research Library
  8. ^ Combined Arms Research Library
  9. ^ Combined Arms Research Library
  10. ^ Combined Arms Research Library
  11. ^ Drea, Edward J. http://www-http://www-cgsc.army.mil/carl/resources/csi/drea2/BigMaps.html#map6 "Leavenworth Papers No. 2 Nomonhan: Japanese Soviet Tactical Combat, 1939 - BIG MAPS - Map 6" - Retrieved: May 13, 2007.
  12. ^ Leavenworth Papers No. 2 Nomonhan: Japanese-Soviet Tactical Combat, 1939; MAPS
  13. ^ Combined Arms Research Library
  14. ^ Combined Arms Research Library
  15. ^ Combined Arms Research Library
  16. ^ Combined Arms Research Library
  17. ^ Steven J. Zaloga, Howard Gerrard, The Poland 1939: the birth of Blitzkrieg, Osprey Publishing, 2002, ISBN 1841764086, Google Print, p.80
  18. ^ http://www.yale.edu/lawweb/avalon/wwii/s2.htm "Declaration Regarding Mongolia", April 14, 1941. - Retrieved: May 13, 2007.
  19. ^ http://www.yale.edu/lawweb/avalon/wwii/s1.htm "Pact of Neutrality between Union of Soviet Socialist Republics and Japan," April 13, 1941. - Retrieved: May 13, 2007
  20. ^ Cultological Culture

^ Cố Vân Thâm, Thập đại tùng thư - 10 Đại Tướng Soái thế giới, NXB Văn hóa Thông tin, 2003 (người dịch: Phong Đảo)

[sửa] Liên kết mở rộng


aa - ab - af - ak - als - am - an - ang - ar - arc - as - ast - av - ay - az - ba - bar - bat_smg - bcl - be - be_x_old - bg - bh - bi - bm - bn - bo - bpy - br - bs - bug - bxr - ca - cbk_zam - cdo - ce - ceb - ch - cho - chr - chy - co - cr - crh - cs - csb - cu - cv - cy - da - de - diq - dsb - dv - dz - ee - el - eml - en - eo - es - et - eu - ext - fa - ff - fi - fiu_vro - fj - fo - fr - frp - fur - fy - ga - gan - gd - gl - glk - gn - got - gu - gv - ha - hak - haw - he - hi - hif - ho - hr - hsb - ht - hu - hy - hz - ia - id - ie - ig - ii - ik - ilo - io - is - it - iu - ja - jbo - jv - ka - kaa - kab - kg - ki - kj - kk - kl - km - kn - ko - kr - ks - ksh - ku - kv - kw - ky - la - lad - lb - lbe - lg - li - lij - lmo - ln - lo - lt - lv - map_bms - mdf - mg - mh - mi - mk - ml - mn - mo - mr - mt - mus - my - myv - mzn - na - nah - nap - nds - nds_nl - ne - new - ng - nl - nn - no - nov - nrm - nv - ny - oc - om - or - os - pa - pag - pam - pap - pdc - pi - pih - pl - pms - ps - pt - qu - quality - rm - rmy - rn - ro - roa_rup - roa_tara - ru - rw - sa - sah - sc - scn - sco - sd - se - sg - sh - si - simple - sk - sl - sm - sn - so - sr - srn - ss - st - stq - su - sv - sw - szl - ta - te - tet - tg - th - ti - tk - tl - tlh - tn - to - tpi - tr - ts - tt - tum - tw - ty - udm - ug - uk - ur - uz - ve - vec - vi - vls - vo - wa - war - wo - wuu - xal - xh - yi - yo - za - zea - zh - zh_classical - zh_min_nan - zh_yue - zu -