See also ebooksgratis.com: no banners, no cookies, totally FREE.

CLASSICISTRANIERI HOME PAGE - YOUTUBE CHANNEL
Privacy Policy Cookie Policy Terms and Conditions
F-14 Tomcat – Wikipedia tiếng Việt

F-14 Tomcat

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

F-14 Tomcat
F-14 Không quân Hoa Kỳ
Kiểu Máy bay tiêm kích đánh chặn /đa năng
Hãng sản xuất Grumman Aircraft Engineering Corporation
Chuyến bay đầu tiên 21 tháng 12-1970
Được giới thiệu 1974
Tình trạng Phục vụ tích cực
Hãng sử dụng chính Không quân Hoa Kỳ
Không quân Cộng hòa Hồi giáo Iran
Số lượng được sản xuất 712
Chi phí máy bay 38 triệu USD năm 1998

Grumman F-14 Tomcat (mèo đực) là một loại máy bay siêu âm, có 2 động cơ, 2 chỗ, cánh có thể thay đổi hình dạng (cánh cụp cánh xòe). Trong suốt thời gian phục vụ trong Hải quân Hoa Kỳ (1972-2006), nó thể hiện là một máy bay chiến đấu vượt trội trên không, dùng vào do thám, ném bom và chặn đánh trên không. Nó được phát triển sau sự sụp đổ của dự án F-111B, nó trở thành dòng đầu tiên trong loạt máy bay chiến đấu của Hoa Kỳ được phát triển sau những trận không chiến với MiGViệt Nam.

Được đưa vào sử dụng trong hải quân năm 1972, thay thế cho F-4 Phantom II. Được xuất khẩu cho Vương quốc Iran năm 1976. Nó được rút khỏi biên chế của Hải quân Hoa Kỳ vào 22-9-2006, và được thay thế bởi F/A-18E/F Super Hornet. Đến 2006, Không quân Cộng hòa Hồi giáo Iran vẫn sử dụng F-14 nhưng đã cũ do không có phụ tùng thay thế.

Mục lục

[sửa] Lịch sử về F-14 Tomcat

F-14 thuộc phi đội VF-114 bay giám sát TU-95 Bear
F-14 thuộc phi đội VF-114 bay giám sát TU-95 Bear

F-14 Tomcat được tạo nên để thay thế cho dự án F-111B, hải quân thay đổi dự án Tactical Fighter Experimental (TFX). Hải quân có nhu cầu về những phi đội máy bay chiến đấu với vai trò ngăn chặn máy bay ném bom của Liên Xô trước khi những máy bay của Liên Xô phóng tên lửa vào tàu sân bay. Hải quân rất cố gắng chống lại dự án TFX, khi mà nhu cầu sát nhập máy bay chiến đấu của hải quân vào không quân nhằm tăng khả năng tấn công của không quân, họ sợ rằng sự sát nhập sẽ tạo ra sự yếu kém của máy bay chiến đấu. Sự lo lắng này đã ăn sâu khi mà đô đốc Connolly lấy sự phát triển F-111A làm mục tiêu chính và nhận ra nó không thể đạt tốc độ siêu âm và có đặc điểm hạ cánh kém. Vào tháng 5-1968, hội đồng hải quân quyết định cắt tiền đầu tư cho F-111B, trong thời gian ngắn đã đưa ra dự án RFP cho Naval Fighter Experimental (VFX), một loại máy bay chiến đấu có 2 chỗ với vận tốc Mach 2.2 và giữ vai trò thứ yếu trong sự chống đỡ trên không. Có 5 công ty tham gia bỏ thầu, McDonnell DouglasGrumman đã được chọn vào tháng 12-1968, và Grumman đã nhận được hợp đồng vào tháng 1-1969. Grumman là một thành viên trong dự án F-111B, công việc được sớm bắt đầu và dự án sớm nhận được sự nhạo báng, sự dự đoán giá thành sẽ lớn khi họ thấy Grumman là thành viên trong dự án F-111B, một khi mà hải quân vừa thay thế dự án F-111B.

Grumman đã dùng lại đồ án động cơ TF-30 từ F-111B, dù hải quân có ý định dùng động cơ F401 cho máy bay của họ được phát triển bởi Pratt & Whitney. Dù khả quan hơn F-111B, nó vẫn là loại máy bay chiến đấu to lớn và nặng nề của Hoa Kỳ của thời kỳ này, nó có kích cỡ đáp ứng đòi hỏi để mang được loại rada lớn AWG-9 và tên lửa AIM-54 Phoenix, cũng lấy từ F-111B. Để làm giảm bớt giá thành, F-14 sẽ dùng cơ cấu hạ cánh, ống dẫn không khí và cánh của Grumman A-6 Intruder.

Trên sự công nhận hợp đồng dành cho F-14, Grumman đã thành công trong việc mở rộng phát triển nó ở Calverton, Long Island, New York để dễ dàng trong những bài kiểm tra và đánh giá công nghệ cánh để đánh chặn. Rất nhiều lần thử nghiệm trên không ở Long Island Sound thành công trước một vài tai nạn nhỏ. Dưới sự bảo trợ của bộ trưởng quốc phòng lúc ấy là McNamara, hải quân đã chấp nhận sử dụng F-14.

F-14 bay chuyến đầu tiên vào 21-12-1970, 22 tháng sau khi Grumman nhận được hợp đồng, và sau đó được chuyển sang Initial Operational Capability (IOC) năm 1973. Trong khi thủy quân lục chiến để mắt tới F-14, tiến xa hơn tới việc gửi phi công tới VF-124 để đào tạo.

[sửa] Lịch sử hoạt động

[sửa] Hải quân Hoa Kỳ

F-14 bắt đầu thay thế cho F-4 Phantom II trong hải quân vào tháng 9-1974 phi đội VF-1 Wolfpack và VFA-2 Bounty Hunters trên tàu sân bay USS Enterprise (CVN 65), và đã tham gia vào sự kiện di tản của người Mĩ khỏi Sài Gòn. F-14 tiêu diệt mục tiêu đầu tiên vào 19-8-1981 trong sự kiện vịnh Sidra (Gulf of Sidra), 2 chiếc F-14 thuộc phi đội VF-41 giao chiến với 2 chiếc Su-22 Fitters của Libya. F-14 tránh khỏi những đợt tấn công săn đuổi của tên lửa tầm nhiệt AA-2 Atoll và bắn trả lại, hạ cả 2 máy bay chiến đấu của Libya. F-14 của hải quân Hoa Kỳ còn không chiến với MiG-23 "Floggers" của Libya trong vịnh Sidra (Gulf of Sidra incident) ngày 4-1-1989 một lần nữa, 2 chiếc F-14 thuộc phi đội VF-32 đã hạ 2 chiếc MiG-23 Floggers.

F-14A
F-14A

F-14 được công nhận rỗng rãi, nó được cải tiến và được giới thiệu trong tháng 3-1987 với phiên bản F-14A+. Bụng máy bay được cải tiến nhằm thay thế động cơ TF30 bằng động cơ khác mạnh hơn General Electric F110-400. Tất cả F-14A+ được thiết kế lại từ F-14B có thể vào tháng 1-1991. Dọc theo chương trình F-14B những cải tiến đã khởi đầu cho sự kết hợp giữa ngành điện tử hàng không và hệ thống vũ khí, sự cải tiến đã làm cho F-14 trở nên trở nên mạnh hơn trước những cuộc cạnh tranh khác. F-14D, được sản xuất từ chương trình cải tiến năm 1991 trong sự giảm dần số lượng, nó được trang bị động cơ General Electric F110-400 giống F-14B, hệ thống rada mới AN/APG-71, Airborne Self Protection Jammer (ASPJ-hệ thống làm nhiễu), Joint Tactical Information Distribution System (JTIDS-hệ thống sắp xếp thông tin do thám), Infrared Search and Track (IRST-dò tìm bằng tia hồng ngoại) và điều chỉnh lại hệ thống bay.

Đến năm 1994, tất cả biến thể của F-14 đã thể hiện năng lực tấn công của mình, chúng đều được trang bị hệ thống đi biển ban đêm bằng tia hồng ngoại LANTIRN, tưong thích hệ thống nhìn ban đêm và hệ thống bảo vệ mới LAU-138 BOL Chaff. Đến khi gần hết hạn sử dụng, F-14 vẫn tiếp tục được cải tiến.

Những chiếc F-14 đã tham gia vào chiến dịch bão táp sa mạc năm 1991 trong Chiến tranh vùng Vịnh, nhiệm vụ chủ yếu của nó bị hạn chế trong hộ tống và do thám trên không. F-15 Eagles được ưu tiên trao nhiệm vụ trong chiến dịch đáp trả bằng không quân của Hoa Kỳ đối với Iraq năm 1991. Bất cứ vật thể nào tỏa ra nhiệt đều bị rada cảnh báo AWG-9/APG-71 phát hiện, khi máy bay chiến đấu của Iraq bị phát hiện, lập tức những chiếc F-14 có mặt, có lẽ do rút ra được những bài học trong chiến tranh với Iran khi mà Iran sử dụng phi đội F-14 của họ tham chiến, nên những máy bay của Iraq lập tức từ bỏ ý định tấn công khi thấy F-14 và tên lửa AIM-54. F-14 phải chịu tổn thất đầu tiên ngày 21-1-1991, 1 chiếc F-14A cải tiến thuộc phi đội VF-103 bị bắn hạ bởi tên lửa SA-2 trong khi đang thực hiện nhiệm vụ hộ tống gần sân bay quân sự Al Asad ở Iraq. 2 phi đều may mắn thoát nạn nhờ hệ thống ghế phóng và được lực lượng đặc nhiệm của không quân giải thoát nhưng viên sĩ quan hoa tiêu đã bị Iraq bắt giữ trở lại và bị giam cầm đến hết cuộc chiến. F-14 có thắng lợi cuối cùng trong chiến tranh vào ngày 7-2-1991 khi một chiếc F-14A thuộc phi đội VF-1 bắn hạ một chiếc Mil Mi-8 của Iraq bằng tên lửa AIM-9 Sidewinder.

F-14 thuộc phi đội VF-31
F-14 thuộc phi đội VF-31

Năm 1995, những chiếc F-14 thuộc phi đội VF-14 và VF-41 đã tham gia vào chiến dịch ném bom Bosna và Hercegovina (NATO gọi là Operation Deliberate Force), năm 1999 là chiến dịch không kích Nam Tư (Operation Allied Force) và năm 1998, phi đội VF-32 và VF-213 tham gia vào chiến dịch cáo sa mạc (Operation Desert Fox). Ngày 15-2-2001, bom thông minh JDAM (Joint Direct Attack Munition hay Vũ khí tấn công điều khiển chung) được trang bị vào kho vũ khí của F-14. Ngày 7-10-2001, F-14 thực hiện một số cuộc tấn công đầu tiên đánh dấu sự mở đầu cho chiến dịch tự do lâu dài (Operation Enduring Freedom) ở Afghanistan và lần đầu tiên F-14 sử dụng Bom JDAM vào ngày 11-3-2002. F-14 thuộc các phi đội VF-2, VF-31, VF-32, VF-154 và VF-213 cũng tham gia vào chiến dịch Iraq tự do (Operation Iraqi Freedom). Vào ngày 10-12-2005, F-14D thuộc phi đội VF-31 và VF-213 được cải tiến với thiết bị ROVER (Remotely Operated Video Enhanced Receiver), hệ thống này là một thiết kế sáng tạo được ứng dụng trên phương tiện bay không người lái, cho phép kết nối hình ảnh trực tiếp từ máy bay được xử lý bằng hệ thống Forward Air Controller (FAC) đến các hệ thống dưới măt đất thông qua FAC's laptop. Những chiếc F-14 thuộc phi đội VF-31 và VF-213 được triển khai làm nhiệm vụ lần cuối cùng trên tàu sân bay [[USS Theodore Roosevelt]] năm 2005.

[sửa] Sự thay thế cho F-14

Khi F-14 được phát triển, người ta phải lựa chọn giữa trọng lượng của nó hay là 80,000 lb của F-111B, F-14 vẫn có một kích thước lớn và giá tiền khá cao vào thời điểm đó. Chương trình thí nghiệm máy bay chiến đấu hải quân được khôi phục lại năm 1970, với mục đích hạ thấp giá thành thay thế cho F-4 PhantomA-7 trong hạm đội của hải quân. Và F/A-18 Hornet đã nổi lên là một máy bay chiến đấu có đủ khả năng đáp ứng mọi yêu cầu.

Buồng lái F-14
Buồng lái F-14

Bộ hải quân Hoa Kỳ đã không chấp nhận đề xuất của Grumman nâng cấp F-14 lên kiểu D, một kiểu máy bay của thế kỷ 21. Thay vào đó, hải quân chọn F/A-18E/F làm vai trò bảo vệ trên không và tấn công thay thế cho F-14.

[sửa] Sự nghỉ hưu của F-14

F-14 đã hoàn thành nhiệm vụ của nó khi rút khỏi biên chế của hải quân. Một số chiếc được giữ lại phục vụ đến năm 2008 nhưng đã bị công kích đòi đưa chúng về nghỉ, nhưng tất cả F-14A và F-14B đã về nghỉ, chỉ còn 2 phi đội VF-31 Tomcatters và VF-213 Black Lions với những chiếc F-14 thuộc lớp D, sẽ phục vụ đến hết 10-3-2006 tại sân bay hải quân Oceana.

Nhiệm vụ cuối cùng của F-14 được hoàn thành vào ngày 8-2-2006, khi 2 chiếc F-14 cất cánh từ tàu sân bay [[USS Theodore Roosevelt]] để thực hiện phi vụ thả bom ở Iraq. Và chiếc máy bay thực hiện nhiệm vụ ném bom cuối cùng thuộc phi đội VF-31 được lái bởi trung tá Bill Frank, 1 chiếc F-14D thuộc VF-213 được lái bởi đại úy William G. Sizemore. Trong suối quá trình được triển khai trên tàu USS Theodore Roosevelt, VF-31 và VF-213 cùng hoàn thành 1,163 chuyến bay làm nhiệm vụ với tổng số 6,876 giờ bay, sử dụng 9,500 pounds vũ khí trong quá trình bay do thám, giám sát trên không trong chiến dịch Iraq tự do (Operation Iraqi Freedom). Vào ngày 10-3-2006, 22 chiếc F-14 đáp cánh xuống sân bay hải quân Oceana, nơi triển khai đội hình chiến đấu lần cuối cùng của F-14. Phi công và sĩ quan rada (RIO-radar intercept officers) thuộc phi đội VF-213 sẽ được đào tạo chuyển tiếp sang sử dụng loại Super Hornet, được huấn luyện bằng F/A-18F (2 chỗ phiên bản huấn luyện) vào tháng 4-2006, và họ có thể dùng thành thạo F/A-18F vào tháng 9-2006. VF-31 vẫn giữ lại F-14 đến tháng 9 cho sự triển khai trên tàu sân bay cho đến khi bị loại bỏ. Phi công thuộc VF-31 sẽ được đào tạo sử dụng loại Super Hornet bằng phiên bản huấn luyện 1 chỗ F/A-18E vào tháng 10-2006. Phi đội VF-31 sẽ sử dụng thành thạo máy bay chiến đấu mới vào tháng 4-2007. Sau ngày 22-9-2006, những phi đội F-14 sẽ về vườn tại Davis-Monthan "Boneyard".

[sửa] Không quân hoàng gia Iran/Không quân cộng hòa hồi giáo Iran

F-14 được sơn màu giống như của Không quân Iran
F-14 được sơn màu giống như của Không quân Iran

F-14 được cung cấp cho Không quân Hoàng gia Iran (từ 1979 là Không quân Cộng hòa Hồi giáo Iran) trong thời kỳ cầm quyền của nhà vua Iran Mohammad Reza Pahlavi.

Đầu những năm 1970, Không quân Hoàng gia Iran (IIAF) đã tìm kiếm một loại máy bay chiến đấu cao cấp có khả năng ngăn chặn máy bay do thám MiG-25 của Liên Xô. Sau chuyến viếng thăm của Tổng thống Hoa Kỳ Nixon tới Iran năm 1972, trong suốt quá trình Iran đề nghị nhận được sự giúp đỡ kỹ thuật quân sự từ phía Hoa Kỳ, IIAF đã tính toán kỹ lưỡng trong việc chọn F-14 Tomcat và F-15 Eagle. Theo sự đàm phán sơ bộ với Lầu Năm Góc, làm nền tảng cho việc ứng dụng rada AWG-9 và hệ thống vũ khí tên lửa AIM-54 Phoenix tốt nhất, Iran đã chọn F-14. Có sự chọn lựa từ phía Iran, hầu như trong năm sau đó, công ty Grumman đã đưa ra sự chào hàng tới nhà vua Iran, cuối cùng sự cạnh tranh đã thể hiện sự ganh đua giữa Eagle và Tomcat. Tiếp sau cuộc biểu diễn của 2 chiếc F-14, vào thàng 1-1974 nhà vua đã đặt hàng 30 chiếc F-14 và 424 quả tên lửa AIM-54 Phoenix trong kế hoạch "Vua Ba tư" đáng giá 300 triệu USD. Chỉ vài tháng sau kế hoạch đã được mở rộng ra tăng thêm 50 chiếc F-14A và 290 quả tên lửa AIM-54. Tổng số Iran đã đặt hàng 80 chiếc Tomcat và 714 quả tên lửa Phoenix, số tăng thêm sẽ được thay thế động cơ trong 10 năm, hoàn thành việc giao hàng, và cơ sở vật chất (xây dựng sân bay quân sự lớn Khatami, trong sa mạc gần Esfahan) cuối cùng lên tới 2 tỉ USD, đây là đơn đặt hàng lớn nhất trong lịch sử Hoa Kỳ.

Chiếc F-14 đầu tiên được hoàn thành tháng 1-1976, đã giảm bớt thiết bị điện tử trong đó, nhưng được thay thế với động cơ TF-30-414. Trong những năm sau, hơn 12 chiếc đã được cung cấp cho phía Iran. Trong lúc ấy, việc huấn luyện những nhóm phi công Iran đầu tiên đang thực hiện ở Hoa Kỳ, phi công phải trải qua sự huấn luyện theo một giáo án nghiêm ngặt, một trong những bài đánh giá là bắn hạ máy bay không người lái ở độ cao 50,000 feet bằng tên lửa AIM-54. Những bài kiểm tra phụ được thêm vào năm 1977, tháng 10-1978, 2 phi công Iran lái F-14 chặn máy bay do thám MiG-25 của Liên Xô đang trên đường làm nhiệm vụ trên bờ biển Iran trong vịnh Caspian, đã làm cho Liên Xô ngừng lại việc bay trên bầu trời Iran.

F-14 và tên lửa AIM-54
F-14 và tên lửa AIM-54

Sau sự kiện lật đổ vua Shah, chế độ của giáo chủ Ayatollah Khomeini đã dừng hầu hết các kế hoạch quân sự trước đó. Nhiều tàu chở hàng lớn đã phải nằm dưới sự giám sát, bao gồm cả những chiếc Tomcat của Iran. Chiếc Tomcat thứ 80 bị hải quân hoãn trao cho Iran. Theo bản báo cáo trái ngược của Tom Cooper, những chiếc F-14 của Iran đã bị phá hủy theo sự ra đi của vua Shah. Sự kiện lật đổ vua Shah đã dẫn đến vết đen trong quan hệ giữa Hoa Kỳ và Iran, khiến cho Iran phải chịu lệnh cấm vận của Hoa Kỳ, bao gồm cả việc chuyển giao máy bay chiến đấu và tên lửa. Một vài tin đồn cho rằng trước khi cách mạng xảy ra, một số tên lửa AIM-54 Phoenix đã được bán cho Liên Xô, và chúng đã có ảnh hưởng đến tên lửa tầm xa Vympel AA-9 của Liên Xô. Hầu hết chứng cớ không ủng hộ cho luận điệu trên, bản báo cáo tình báo đã nêu ra rằng người Iran không chỉ một lần sử dụng tên lửa Phoenix trong các trận chiến và nó có khả năng chống lại máy bay chiến đấu của kẻ địch. Iran ngay lúc bây giờ đã có một phiên bản cải tiến của AIM-54, họ đã thay thế AIM-54 bằng tên lửa không đối không R-73 của Nga.

Trong kế hoạch "Chim Ưng" ("Sky Hawk"), Iran đã điều chỉnh tên lửa MIM-23 HAWK chống lại F-14. IRIAF cố gắng sử dụng bom chùm Mk.83 với F-14 và phát triển nó thành máy bay oanh tạc trong các trận chiến. Nguồn tin chưa kiểm chứng cho biết một phi đội F-14 đã bay sang Nga với toàn bộ máy bay và người Nga đã nghiên cứu chúng dưới sự cho phép của Iran để duy trì bảo dưỡng đồng thời nâng cấp - bao gồm cả rada, động cơ, và thiết bị điện tử của Nga. Cả Iran và Nga đều từ chối xác nhận thông tin này.

[sửa] Các biến thể

Có tất cả 712 chiếc F-14 được sản xuất từ năm 1969 đến năm 1991 tại xưởng sản xuất của Grumman tại Bethpage, Long Island, New York.

  • YF-14A : mẫu thử đầu tiên và dựa vào nó để sản xuất 12 chiếc đầu.
  • F-14A : phiên bản máy bay đánh chặn trong mọi thời tiết 2 chỗ cho hải quân Hoa Kỳ. Sự cải tiến đã thêm vào khả năng mang theo nhiều vũ khí hơn. 545 chiếc F-14A đã được cung cấp cho hải quân Hoa Kỳ và 79 chiếc cho Iran. 102 chiếc F-14A cuối cùng được cung cấp với động cơ cải tiến TF30-P-414A. Thêm vào đó chiếc F-14A thứ 80 được chế tạo cho Iran, nhưng đã chuyển giao cho hải quân Hoa Kỳ.
  • F-14A+ hay F-14B : bản cải tiến với động cơ GE F110-400. Rất nhiều thiết bị điện tử đã được trang bị. 38 máy bay mới được sản xuất và 48 chiếc F-14A được cải tiến thành phiên bản F-14B. Vào những năm 1990, 67 chiếc F-14B được bảo dưỡng để tăng tuổi thọ, cải tiến hệ thống tấn công và hệ thống bảo vệ điển tử.
  • F-14D Super Tomcat : bản cải tiến cuối cùng của F-14. Động cơ TF-30 cũ được thay thế bằng động cơ GE F110-400, giống như F-14B. Hơn nữa F-14D có hệ thống điện tử hoàn toàn mới, buồng lái mới và thay thế rada AWG-9 bằng rada mới APG-71. 37 chiếc đã được sản xuất và 18 chiếc F-14A đã được nâng cấp thành phiên bản D.

[sửa] Biên chế của F-14

[sửa] Các phi đội có sử dụng F-14 trong hải quân Hoa Kỳ (USN)

F-14 nhìn trực diện
F-14 nhìn trực diện
F-14 bắn tên lửa AIM-7 Sparrow
F-14 bắn tên lửa AIM-7 Sparrow
  • VF-1 Wolfpack (giải thể 30-9-1993)
  • VF-2 Bounty Hunters (thay thế với F/A-18F 1-7-2003)
  • VF-11 Red Rippers (thay thế với F/A-18F 5-2005)
  • VF-14 Tophatters (thay thế với F/A-18E 1-12-2001)
  • VF-21 Freelancers (giải thể 31-1-1996)
  • VF-24 Fighting Renegades (giải thể 20-8-1996)
  • VF-31 Tomcatters (thay thế với F/A-18E 10-2006)
  • VF-32 Swordsmen (thay thế với F/A-18F 1-10-2005)
  • VF-33 Starfighters (giải thể 1-10-1993)
  • VF-41 Black Aces (thay thế với F/A-18F 1-12-2001)
  • VF-51 Screaming Eagles (giải thể 31-3-1995)
  • VF-74 Bedevilers (giải thể 30-4-1994)
  • VF-84 Jolly Rogers (giải thể 1-10-1995)
  • VF-101 Grim Reapers (giải thể 15-9-2005)
  • VF-102 Diamondbacks (thay thế với F/A-18F 1-5-2002)
  • VF-103 Sluggers/Jolly Rogers (thay thế với F/A-18F 1-5-2005)
  • VF-111 Sundowners (giải thể 31-3-1995)
  • VF-114 Aardvarks (giải thể 30-4-1993)
  • VF-124 Gunfighters (giải thể 30-9-1994)
  • VF-142 Ghostriders (giải thể 30-4-1995)
  • VF-143 Pukin' Dogs (thay thế với F/A-18E đầu 2005)
  • VF-154 Black Knights (thay thế với F/A-18F 1-10-2003)
  • VF-191 Satan's Kittens (giải thể 30-4-1988)
  • VF-194 Red Lightnings (giải thể 30-4-1988)
  • VF-201 Hunters (thay thế với F/A-18A 1-1-1999)
  • VF-202 Superheats (giải thể 31-12-1999)
  • VF-211 Fighting Checkmates (thay thế với F/A-18F 1-10-2004)
  • VF-213 Black Lions (thay thế với F/A-18F 1-5-2006)
  • VF-301 Devil's Disciples (giải thể 11-9-1994)
  • VF-302 Stallions (giải thể 11-9-1994)
  • VX-4 Evaluators (giải thể 30-9-1994)
  • VX-9 Vampires (đang hoạt động gồm F/A-18C/D/E/F, EA-6B, AV-8B, và AH-1)

[sửa] Các phi đội F-14 trong không quân cộng hòa hồi giáo Iran (IRIAF)

  • Phi đội số 72: F-14A, 1976 - 1980
  • Phi đội số 73: F-14A, 1977 - giữa 1990
  • Phi đội số 81: F-14A, 1977 - đến ngày nay
  • Phi đội số 82: F-14A, 1978 - đến ngày nay
  • Phi đội số 83: F-14A, đổi tên từ phi đội số 73

[sửa] Thông số kỹ thuật (F-14D Super Tomcat)

[sửa] Thông số chung

  • Phi đoàn: 2 (phi công và sĩ quan rada)
  • Dài: 61 ft 9 in (18.6 m)
  • Chiều dài cánh: cánh xòe 64 ft, cánh cụp 38 ft (19 m / 11.4 m)
  • Cao: 16 ft (4.8 m)
  • Diện tích cánh: 565 ft² (54.5 m²)
  • Cánh máy bay: NACA 64A209.65 mod root, 64A208.91 mod tip
  • Trọng lượng rỗng: 42,000 lb (19,000 kg)
  • Trọng lượng cất cánh: 61,000 lb (28,000 kg)
  • Trọng lượng mang tối đa: 72,900 lb (32,805 kg)
  • Động cơ: 2× General Electric F110-GE-400 động cơ phản lực cánh quật đẩy, lực đẩy 13,810 lbf (72kN) với nhiên liệu thường, 27,800 lbf (126kN) với nhiên liệu phụ trội

[sửa] Đặc tính

  • Vận tốc cực đại: Mach 2.34, 1,544 mph (2,485 km/h)
  • Phạm vi hoạt động: 576 dặm (927 km)
  • Trần bay: 50,000+ ft (16,000+ m)
  • Vận tốc: 45,000+ ft/min (230+ m/s)
  • Lực nâng của cánh: 113.4 lb/ft² (553.9 kg/m²)
  • Lực đẩy/khối lượng: 0.91

[sửa] Vũ khí

Mang được 13,000 lb (5,900 kg), vũ khí gồm:

  • Súng: 1× M61 Vulcan 20 mm Gatling Gun
  • Tên lửa: AIM-54 Phoenix, AIM-7 Sparrow , AIM-9 Sidewinder không đối không
    • 2× AIM-9 + 6× AIM-54
    • 2× AIM-9 + 2× AIM-54 + 3× AIM-7
    • 2× AIM-9 + 4× AIM-54 + 2× AIM-7
    • 2× AIM-9 + 6× AIM-7
    • 4× AIM-9 + 4× AIM-54
    • 4× AIM-9 + 4× AIM-7
  • Bom: GBU-10, GBU-12, GBU-16, GBU-24, GBU-24E Paveway I/II/III LGB, GBU-31, GBU-38 JDAM, Mk-20 Rockeye II, Mk-82, Mk-83 và Mk-84

[sửa] Thiết bị điện tử

  • Hughes AN/APG-71 radar
  • AN/ASN-130 INS, IRST, TCS

[sửa] Giá thành

  • 38 triệu USD/chiếc

[sửa] Tham khảo

  • Tony Holmes (2005). US Navy F-14 Tomcat Units of Operation Iraqi Freedom, Osprey Publishing Limited.
  • Lou Drendel (1977). F-14 Tomcat in Action, Squadron/Signal Publications
  • GRUMMAN F-14, Vol. 25 by J.P.Stevenson, Aero Series of Tab Books Inc., 1975. ISBN 0-8306-8592-8.
  • Jane's All The World's Aircraft.
  • Bill Gunston, Mike Spick (1983). Modern Air Combat, Crescent Books. ISBN 0-517-41265-9.

[sửa] Nội dung liên quan

[sửa] Máy bay liên quan

[sửa] Máy bay tương tự

[sửa] Trình tự thiết kế


aa - ab - af - ak - als - am - an - ang - ar - arc - as - ast - av - ay - az - ba - bar - bat_smg - bcl - be - be_x_old - bg - bh - bi - bm - bn - bo - bpy - br - bs - bug - bxr - ca - cbk_zam - cdo - ce - ceb - ch - cho - chr - chy - co - cr - crh - cs - csb - cu - cv - cy - da - de - diq - dsb - dv - dz - ee - el - eml - en - eo - es - et - eu - ext - fa - ff - fi - fiu_vro - fj - fo - fr - frp - fur - fy - ga - gan - gd - gl - glk - gn - got - gu - gv - ha - hak - haw - he - hi - hif - ho - hr - hsb - ht - hu - hy - hz - ia - id - ie - ig - ii - ik - ilo - io - is - it - iu - ja - jbo - jv - ka - kaa - kab - kg - ki - kj - kk - kl - km - kn - ko - kr - ks - ksh - ku - kv - kw - ky - la - lad - lb - lbe - lg - li - lij - lmo - ln - lo - lt - lv - map_bms - mdf - mg - mh - mi - mk - ml - mn - mo - mr - mt - mus - my - myv - mzn - na - nah - nap - nds - nds_nl - ne - new - ng - nl - nn - no - nov - nrm - nv - ny - oc - om - or - os - pa - pag - pam - pap - pdc - pi - pih - pl - pms - ps - pt - qu - quality - rm - rmy - rn - ro - roa_rup - roa_tara - ru - rw - sa - sah - sc - scn - sco - sd - se - sg - sh - si - simple - sk - sl - sm - sn - so - sr - srn - ss - st - stq - su - sv - sw - szl - ta - te - tet - tg - th - ti - tk - tl - tlh - tn - to - tpi - tr - ts - tt - tum - tw - ty - udm - ug - uk - ur - uz - ve - vec - vi - vls - vo - wa - war - wo - wuu - xal - xh - yi - yo - za - zea - zh - zh_classical - zh_min_nan - zh_yue - zu -