Alfred Riedl
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Alfred Riedl | ||
Thông tin cá nhân | ||
---|---|---|
Ngày sinh | 2 tháng 11, 1949 (58 tuổi) | |
Nơi sinh | Wien, Áo | |
CLB chuyên nghiệp1 | ||
Năm | CLB | Số trận (số bàn thắng)* |
1961-1967 1967-1972 1972-1974 1974-1976 1976-1980 1980-1981 1981-1982 1982-1984 1984-1985 |
ATSV Teesdorf FK Austria Wien St. Truiden Royal Antwerp Standard Liège Metz Grazer AK Wiener Sportclub Vfb Mödling |
|
Đội tuyển quốc gia | ||
- | Áo | 4 (0) |
Sự nghiệp HLV | ||
1990-1990 1990-1992 1993-1994 1994-1995 1997-1998 1998-2001 2001 2001-2003 2003-2003 2004-2004 2005-2007 |
Olympic Áo Áo Olympique Khouribga Al-Zamalek Liechtenstein Việt Nam Khánh Hòa Al Salmiya Việt Nam Palestine Việt Nam |
|
1 Chỉ tính số trận và số bàn thắng |
Alfred Riedl (sinh ngày 2 tháng 11 năm 1949 tại Wien) là một cựu cầu thủ và là một huấn luyện viên bóng đá người Áo. Khi là cầu thủ, ông đã từng thi đấu tại các giải vô địch bóng đá Áo, Bỉ và Pháp. Trong thời gian đó, ông đã giành chức vô địch Áo, cúp bóng đá Áo và các danh hiệu vua phá lưới Áo và Bỉ cùng giải thưởng Chiếc giày đồng châu Âu năm 1975.
Mục lục |
[sửa] Khả năng ngôn ngữ
Ông có thể nói được 4 thứ tiếng Đức, tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Hà Lan
[sửa] Sự nghiệp cầu thủ
Ông đã từng là cầu thủ của: ATSV Teesdorf/Áo (1961 - 1967); Austria Wien/Áo (1967-1972); St. Truiden/Bỉ (1972-1974); Royal Antwerp/Bỉ (1974-1976); Standard Liege/Bỉ (1976-1980); FC Metz/Pháp (1980-1981); GAK/Áo (1981-1982); Wiener Sportclub/Áo (1982-1984); Vfb Mödling/Áo (1984-1985)
Với tư cách là cầu thủ đội tuyển Áo (4 lần khoác áo), đội U23 Áo (6), đội U18 Áo (5)
[sửa] Danh hiệu đạt được
Vô địch quốc gia Áo (1969, 1970); vua phá lưới Áo (1972), vua phá lưới Bỉ (1973, 75), chiếc giày đồng châu Âu (1975)
[sửa] Sự nghiệp huấn luyện viên
Đội U23 Áo (1990), Đội tuyển Áo (1990-1992), đội tuyển Liechteinstein (1997-1998); đội tuyển quốc gia và U23 Việt Nam (1998-2001; 2003; 2005-2007); đội tuyển Palestine (2004)
[sửa] Thành tích huấn luyện viên
Á quân Cúp châu Phi 1994; cùng đội tuyển Việt Nam giành các danh hiệu huy chương bạc Tiger Cup 1998; huy chương đồng Dunhill Cup 1999; huy chương bạc SEA Games 1999, 2003, 2005 và mới đây nhất là vào tứ kết Asian Cup 2007; huy chương bạc LG Cup 2000, vô địch LG Cup 2003; thứ ba giải vô địch quốc gia Kuwait 2002, á quân vô địch quốc gia Kuwait 2003; á quân Emir Cup (Kuwait) 2003
[sửa] Thời gian làm HLV tại Việt Nam
Năm 2001, Riedl là huấn luyện viên trưởng của câu lạc bộ bóng đá Khánh Hòa trong 4 tháng (từ 1 tháng 2 đến 31 tháng 5) [1]
Hiện nay, Alfred Riedl là huấn luyện viên trưởng đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam. Tổng cộng ông đã 3 lần dẫn dắt các đội tuyển Việt Nam và là huấn luyện viên trưởng đội tuyển đạt nhiều danh hiệu nhất trong lịch sử bóng đá Việt Nam.
Tháng 2 năm 2007, Alfred Riedl sẽ trải qua một ca ghép thận tại quê hương. Chính vì việc này mà nhiều người đã từng cho rằng ông sẽ không dẫn dắt đội tuyển Việt Nam nữa [1].
Tuy nhiên, Riedl đã trở lại, cùng Mai Đức Chung đưa đội tuyển Olympic Việt Nam lần đầu tiên lọt vào vòng loại thứ 3 giải Olympic.
Tại ASIAN Cup 2007 được tổ chức tại Việt Nam, cũng là lần tham gia vòng chung kết ASIAN Cup đầu tiên của đội tuyển Việt Nam, Riedl đã đưa Việt Nam vượt qua vòng đấu bảng, vào đến tứ kết và dừng bước trước Iraq (sau là vô địch giải).
Ngày 10 tháng 12 năm 2007, do thành tích yếu kém của đội tuyển Việt Nam tại SEA Games 24 (thất bại trước Myanma trên chấm 11m), dưới sức ép của Liên đoàn bóng đá Việt Nam và người hâm mộ, Afred Riedl đã từ chức huấn luyện viên trưởng đội tuyển bóng đá Việt Nam [2].
[sửa] Chú thích
- ^ HLV Riedl: “Tôi sẽ huấn luyện đội Khánh Hòa trong 4 tháng” trên VnExpress ngày 12/1/2001.
- ^ Huấn luyện viên Riedl chấp thuận từ chức
[sửa] Liên kết ngoài
- Trang chủ của Alfred Riedl
- "Ai hiểu Alfred Riedl bằng tôi?" - câu chuyện của người lái xe cho Alfred Riedl.
Bài này còn sơ khai. Bạn có thể góp sức viết bổ sung cho bài được hoàn thiện hơn. Xem phần trợ giúp để biết thêm về cách sửa đổi bài. |