Lịch sử Sài Gòn
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Sài Gòn là tên gọi cũ của Thành phố Hồ Chí Minh trước tháng 7 năm 1976.
Mục lục |
[sửa] Lịch sử tên gọi Sài Gòn
Địa danh Sài Gòn hay còn gọi là Sài Côn tồn tại nhiều thế kỷ nay, khoảng trên 300 năm, trước đó Sài Gòn có nhiều tên khác nữa, đầu tiên là Lê Quang Phục bao gồm hầu hết vùng phía Đông Nam (rộng khoảng 20,000-25,000 km²). Đến năm 1668 Sài Gòn có tên là Huyện Tân Bình, lúc này chỉ khoảng 5,000 km² và có đường biên giới phía Tây là sông Sài Gòn. Sau đó Sài Gòn được gọi bởi các tên pháo đài Lao Cam (năm 1700), pháo đài Hoa Phong (năm 1731) và Thành lũy Bán Bích (năm 1772), chỉ với diện tích 5 km². Theo năm tháng thì Sài Gòn là một cái chợ của thị trấn người Tàu (người Trung Quốc) trong thế kỷ thứ 18 với diện tích khoảng 1 km² (hiện nay nó là Chợ Lớn). Năm 1976 Sài Gòn được đổi tên thành Thành phố Hồ Chí Minh.
[sửa] Đề Ngạn
Đây là thuyết được đưa ra bởi 2 người Pháp là Aubaret và Francis Garnier. Theo Aubaret, Histoire et description de la Basse-Cochinchine, và Garnier, Cholen, thì năm 1778 người Hoa ở Cù lao Phố (Biên Hòa) vì giúp đỡ nhà Nguyễn nên bị quân nhà Tây Sơn tàn sát phải rút lui theo con sông Tân Bình (Bến Nghé), chọn vùng đất ở giữa đường Mỹ Tho đi Cù lao Phố mà xây dựng tân sở, ngày sau thành phố Chợ Lớn. Năm 1782 họ lại bị quân nhà Tây Sơn tàn sát một lần nữa. Ít lâu sau họ xây dựng lại, đắp đê cao nên đặt tên chỗ mới là "Tai-Ngon", hoặc "Tin-Gan", phát âm theo giọng Quảng Đông là "Thầy Ngồn" hay "Thì Ngòn", đọc theo âm Hán-Việt là "Đề Ngạn" (堤岸). Họ dùng danh từ "Tây Cống" hoặc "Xây-cóon", "Xi-cóon" để ám chỉ vùng người Việt ở tức chợ Bến Thành ngày nay.
Thuyết này được hai học giả là Vương Hồng Sển và Thái Văn Kiểm đồng ý. Quả thật, trên phương diện ngữ âm, thì "Thầy Ngòn", "Xi Coón" rất giống "Sài Gòn". Tuy nhiên, theo lịch sử thì không phải, vì lịch sử chứng minh rằng Sài Gòn có trước, rồi người Tàu mới đọc theo và đọc chại ra thành Thầy Ngòn, Xi Coon.
Theo Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quý Đôn viết năm 1776, năm 1674 Thống suất Nguyễn Dương Lâm vâng lệnh chúa Nguyễn đánh Cao Miên và phá vỡ "Luỹ Sài Gòn" (theo Hán Nho viết là "Sài Côn"). Đây là lần đầu tiên chữ "Sài Gòn" xuất hiện trong tài liệu Việt Nam. Vì thiếu chữ viết nên chữ Hán "Côn" được dùng thế cho "Gòn". Nếu đọc theo Nôm là "Gòn", còn không biết đó là Nôm mà đọc theo chữ Hán thì là "Côn".
Như vậy, ngay từ năm 1674 đã có địa danh Sài Gòn, không phải đợi đến 1778 khi người Tàu ở Cù Lao Phố bị Tây Sơn tiêu diệt rồi chạy xuống lập nên Thầy Ngòn tức Đề Ngạn, hay Xi Coón tức Tây Cống.
Ngoài ra, về nghĩa lý thì cả hai chữ này hầu như vô nghĩa theo tiếng Hán. Nếu dịch sát thì "Đề Ngạn" là "nắm lấy (đề), bờ sông cao dốc (ngạn)". Theo Nguyễn Đình Đầu trong Địa Chí Văn Hoá, tr 219, tập 1, thì "thành phố trên bến dưới thuyền nào mà không có bờ sông cao dốc, mà không là đề ngạn".
Cuối cùng, nếu tính theo hiện tượng thì việc người Tàu đặt tên cho địa danh ở miền Nam hầu như không có. Ngược lại, họ gọi theo địa danh của Việt Nam bằng tiếng của họ thì có. Thí dụ như "Đồng Nai" biến thành "Nông Nại" theo tiếng Tàu.
[sửa] Củi và Bông gòn
Có thuyết nói rằng "Sài Gòn" bắt nguồn từ chữ "Sài" theo chữ Hán là củi và "Gòn" là chữ Nôm chỉ cây bông gòn.
- "Sài là mượn tiếng viết theo chữ Hán có nghĩa là củi gỗ, Gòn là tiếng Nam chỉ bông gòn. Người ta nói rằng tên đó phát sinh bởi sự kiện nhiều cây bông gòn do người Cao Miên đã trồng chung quanh đồn đất xưa của họ, mà dấu vết nay vẫn còn ở chùa Cây Mai và các vùng lân cận. ... Theo ý tôi, hình như tên đó là của người Cao Miên đặt cho xứ này, rồi sau đem làm tên gọi thành phố. Tôi chưa tìm ra được nguồn gốc đích thực của tên đó."
- (Trương Vĩnh Ký, Souvenirs historiques sur Saigon et ses environs, trong Excursions et Reconnaissance X. Saigon, Imprimerie Coloniale 1885)
Tương tự có nhiều thuyết cho rằng "Sài Gòn" từ chữ "Prey Kor" (Rừng Gòn) hay "Kai Gon" (Cây Gòn) mà ra. Nói chung, các thuyết này đều dựa trên một đặc điểm chính: cây bông gòn.
Nhưng thuyết này phần lớn đã bị bác bỏ vì lý do đơn giản là không ai tìm được dấu tích của một thứ "rừng gòn" ở vùng Sài Gòn, hay sự đắc dụng của củi gòn ở miền Nam, kể cả Trương Vĩnh Ký. Ngay vào thời của Trương Vĩnh Ký (1885) tức khoảng hơn 100 năm sau mà đã không còn dấu tích rõ ràng của thứ rừng này, mặc dù lúc đó không có phát triển gì lắm. Ngay cả khi Louis Malleret khảo nghiệm lại, hình như cũng không có dấu vết gì của một rừng gòn ở Sài Gòn.
Thêm nữa là cây gòn thời đó dùng làm hàng rào chứ không làm củi. Và theo Lê Trung Hoa trong Địa Danh thì "sài" chỉ xuất hiện trong các từ ghép Hán-Việt, như "sài Tân" chứ chưa bao giờ được dùng như một từ đơn, nên không thể nói "củi" được, là "sài" được, hay là "củi gòn" là "Sài Gòn" được.
Vậy, thuyết Sài Gòn là "củi gòn" đã bị bác bỏ bởi thực tế địa lý và ngữ học.
[sửa] Prei Nokor
Dựa theo lịch sử và phát âm có thuyết cho là "Sài Gòn" là được phiên âm từ "Prei Nokor" hay từ "Thầy Ngồn" mà ra. Prei Nokor nguyên là dinh của phó vương Chân Lạp thuộc vùng Chợ Lớn tới chùa Cây Mai, là dấu vết của một "thành phố" có từ thời Tiền Angkor (theo nhà sử học Pháp Louis Malleret). Tuy nhiên không có tài liệu nào khẳng định rằng nơi đây từng tồn tại khu dân cư trước thế kỷ 16.
Ông Petrus Trương Vĩnh Ký là người đưa ra thuyết này. Trong tiểu giáo trình Địa lý Nam Kỳ, ông đã công bố một danh sách đối chiếu 187 địa danh Việt Miên ở Nam Kỳ, như Cần Giờ là Kanco, Gò Vấp là Kompăp, Cần Giuộc là Kantuọc và Sài Gòn là Prei Nokor.
Hai ông Nguyễn Đình Đầu và Lê Trung Hoa đều đồng ý với thuyết này, dựa theo lịch sử và ngữ âm.
Theo sử Cao Miên được dịch lại bởi Louis Malleret, vào năm 1623, một sứ thần của chúa Nguyễn đem quốc thư tới vua Cao Miên và ngỏ ý muốn mượn xứ Prei Nokor và Kras Krabei của Cao Miên để đặt phòng thu thuế. Tới năm 1674, Cao Miên có biến, chúa Nguyễn sai Nguyễn Dương Lâm đánh và phá luỹ Sài Gòn. Vậy, từ 1623 tới 1674, vùng Prei Nokor, hay Sài Gòn, đã phát triển lắm.
Năm 1747, theo danh mục các họ đạo trong Launay, Histoire de la Mission Cochinchine, có ghi "Rai Gon Thong" (Sài Gòn Thượng) và "Rai Gon Hạ" (Sài Gòn Hạ).
Đó la theo sử sách, còn theo tiếng nói thì Prei Nokor (hay Brai Nagara theo tiếng Phạn mà người Miên mượn), có nghĩa là "thị trấn ở trong rừng", "Prei" hay "Brai" là "rừng", "Nokor" hay "Nagara" là "thị trấn". Đây là vùng mà chúa Nguyễn đã mượn làm nơi thu thuế.
Theo tiến trình của ngôn ngữ, Prei hay Brai biến thành Rai, thành "Sài", Nokor bị bỏ "no" thành "kor", và từ "kor" thành "gòn".
[sửa] Bến Củi
Dọc theo con đường Nam tiến của dân tộc Việt Nam có nhiều bến bên các dòng sông: Bến Vân đồn, Bến Thủy, Bến Hải, Bến Quan, Bến Ván, Bến Thóc, Bến Đình, Bến Tranh, Bến Tre, Bến Súc, Bến Tắm Ngựa, Bến Thành, Bến Củi.
Bến Ván đã được đổi ra Bản Tân, Bến Thóc đã đổi ra Mễ Tân. Bến Thành nay vẫn lưu tên ở chợ Bến Thành. Bến Củi có thể đã được đổi ra Sài Tân, Sài Ngạn do người Quảng Đông sống ở khu vực này gọi chữ bến (bờ) là ngạn. Chữ Sài Ngạn có lẽ sau này được đọc thành Sài Gòn.
[sửa] Lịch sử thiết lập hành chính
[sửa] Thời cổ đại
Vào thời kỳ cổ đại, khu vực nay là Thành phố Hồ Chí Minh thuộc đế quốc Phù Nam. Đầu thế kỷ 17 vùng đất này, lúc đó là một làng nhỏ, dân cư thưa thớt và mang tên Prei Nokor, nằm trong khu vực tranh chấp giữa Chân Lạp và Chiêm Thành.
[sửa] Thời Chúa Nguyễn và nhà Nguyễn
Năm 1623, Chúa Nguyễn sai một phái bộ tới yêu cầu vua Chey Chettha II cho lập đồn thu thuế tại Prei Nokor (Sài Gòn) và Kas Krobei (Bến Nghé). Đây là vùng rừng rậm hoang vắng nhưng cũng là địa điểm qua lại và nghỉ ngơi của thương nhân Việt Nam đi Campuchia và Xiêm La. Cùng khi đó, người Việt bắt đầu tập trung sinh sống tại xung quanh hai đồn này. Chẳng bao lâu, hai đồn thu thuế trở thành trung tâm của khu thị tứ trên bến dưới quyền, công nghiệp và thương nghiệp sầm uất.
Vào khoảng năm 1658, Đế chế Chân Lạp đứng trên bờ vực khủng hoảng đã cầu viện chúa Nguyễn nhằm chống lại người Thái. Năm 1679, chúa Nguyễn cho phép một nhóm người Hoa phản Thanh phục Minh, gồm hơn 3.000 người tị nạn tại nơi nay là Biên Hòa (Đồng Nai).
Năm 1698, chúa Nguyễn cử Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam, thiết lập chính quyền, các đơn vị hành chánh, chia đặt tỉnh lỵ v.v., đặt dấu son cho việc chính thức thừa nhận Sài Gòn và miền Nam Việt Nam là một phần không thể tách rời của Việt Nam. Nguyễn Hữu Cảnh lấy xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long và xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, đặt ra hai dinh Trấn Biên (Biên Hoà) và Phiên Trấn (Gia Định), ("Trấn" là khu vực quân sự, chưa ổn định việc cai trị) cho quan vào cai trị. Từ đó, xứ Sài Gòn trở thành huyện Tân Bình và huyện sở đặt ở làng Tân Khai, là trụ sở của dinh Phiên Trấn. Những xóm làng đầu tiên của Sài Gòn là xóm Hòa Mỹ (tức xóm Thủy Trại, gần đường Cường Để) xóm Tân Khai (đường mé sông khoảng cầu Mống), xóm Long Điền, xóm Than, xóm Bàu Sen (cây Mai), xóm Phú Giáo, xóm Lò Bún, xóm cây Củi, xóm Rẫy Cải, xóm Ụ Ghe. Sài Gòn trở thành một thị trấn đông đúc với hơn một vạn dân và là thủ phủ của dinh Phiên Trấn. Thanh Hà là xã đầu tiên của người Hoa ở, vùng Đồng Nai và Minh Hương là xã đầu tiên của người Hoa tại Tân Bình.
Năm 1790, Sài Gòn được nâng lên thành Kinh Gia Định, nơi đóng đô của Nguyễn Ánh chống quân Tây Sơn. Vào năm 1802, dưới triều vua Gia Long, Gia Định Kinh được đổi thành Thành Gia Định (vì kinh đô là Huế), thuộc Trấn Gia Định.
Sau cuộc khởi nghĩa của Lê Văn Khôi, thành Gia Định bị phá huỷ, một thành mới nhỏ hơn gọi là thành Phụng được xây dựng. Thành này không chống nổi cuộc vây hãm của quân Pháp vài năm sau đó.
[sửa] Thời Pháp xâm chiếm Nam Kỳ
Sau khi chiếm được Sài Gòn vào năm 1859, người Pháp đã gấp rút quy hoạch xây dựng Sài Gòn thành một đô thị lớn nhiều chức năng (hành chánh, quân sự, kinh tế, cảng, v.v.). Ngày 11 tháng 4 năm 1861, Phó Đô đốc Charner ra nghị định xác định địa giới Sài Gòn lúc đó: phía đông là sông Sài Gòn, phía bắc là rạch Thị Nghè, phía nam là rạch Bến Nghé, phía tây từ chùa Cây Mai đến đồn Kỳ Hòa, diện tích 25 km².
Năm 1862 dự án thiết kế thành phố Sài Gòn của Coffyn được phê duyệt bao gồm cả vùng Chợ Lớn. Đến năm 1865, do diện tích dự kiến của thành phố quá rộng, khu Chợ Lớn được tách ra khỏi thành phố Sài Gòn.
Năm 1876, Đô đốc Duperré, Tổng chỉ huy quân Pháp tại Nam Kỳ, ra nghị định phân chia toàn bộ Nam Kỳ thành 4 khu vực hành chính lớn, gọi là circonscription administrative, mỗi khu vực ấy lại gồm nhiều tiểu khu hay hạt tham biện (arrondissement administratif). Sài Gòn là một trong 4 khu vực hành chính lớn và gồm 5 hạt Tây Ninh, Thủ Dầu Một, Biên Hòa, Bà Rịa và Gia Định.
Tiếp đó, ngày 8 tháng 1 năm 1877, Tổng thống Pháp ra sắc lệnh thành lập thành phố Sài Gòn. Sắc lệnh này được ban hành ngày 16 tháng 5 năm 1877. Thành phố Sài Gòn do một viên Đốc lý (Maire), hai viên Phó Đốc lý (Maire adjoint) và một Hội đồng thành phố (Conseil municipal) cai quản. Thành phố Sài Gòn được xếp loại thành phố cấp I (municipalité de première classe), cùng hạng với các thành phố Hà Nội và Hải Phòng được thành lập sau này. Gần như đông thời, năm 1879, thành phố cấp II Chợ Lớn cũng được thành lập.
Ngày 13 tháng 12 năm 1880, Thống đốc Nam Kỳ lại ra nghị định thành lập Khu Sài Gòn-Chợ Lớn (Region de Sài Gòn-Chợ Lớn), đặt dưới quyền cai trị của Giám đốc Nha Nội chính. Khu Sài Gòn-Chợ Lớn bao gồm hai thành phố này và vùng phụ cận. Đến ngày 12 tháng 1 năm 1888, hai thành phố Sài Gòn và Chợ Lớn lại được tách ra như cũ.
Đến năm 1930, hai thành phố Sài Gòn và Chợ Lớn đã giáp nhau ở chỗ nay là đường Nguyễn Văn Cừ.
Ngày 27 tháng 4 năm 1931, Khu Sài Gòn-Chợ Lớn được thành lập lại theo sắc lệnh của Tổng thống Pháp. Đứng đầu khu Sài Gòn-Chợ Lớn là một Trưởng khu, do Toàn quyền Đông Dương bổ nhiệm. Trưởng khu là Chủ tịch Hội đồng Quản trị khu Sài Gòn-Chợ Lớn. Chức Đốc lý vẫn còn tồn tại đến ngày 19 tháng 12 năm 1941 nhưng một số quyền hạn của chức này chuyển sang cho Trưởng khu. Từ đây Sài Gòn-Chợ Lớn nhập làm một, ngoài ra còn có tỉnh Chợ Lớn tách biệt ở phía Tây Khu Sài Gòn-Chợ Lớn.
Năm 1941 Khu Sài Gòn-Chợ Lớn được chia thành 5 quận cảnh sát, trông coi về an ninh trật tự.
[sửa] Thời kỳ 1945-1954
Khi Việt Nam độc lập (1945), nơi đây được gọi là thành phố Sài Gòn-Chợ Lớn.
Năm 1948, thành phố được chia thành 6 quận hành chính, rồi tăng thành 7 quận vào năm 1952 và được gọi là Đô thành.
[sửa] Thủ đô Sài Gòn
Giữa những năm 1954 và 1975, sau Hiệp định Genève, Sài Gòn được chính quyền Việt Nam Cộng hòa xây dựng làm thủ đô. Ngày 22 tháng 10 năm 1956, Tổng thống Ngô Đình Diệm ký sắc lệnh số 143-NV đổi "Đô thành Sài Gòn-Chợ Lớn" thành "Đô thành Sài Gòn". Sau đó, ông Diệm ra sắc lệnh số 74-TTP ngày 23-3-1959 ấn định quy chế quản trị Sài Gòn: Tổng thống trực tiếp bổ nhiệm Đô trưởng và các quận trưởng trong đô thành. Bốn ngày sau, Ngô Tổng thống lại ra nghị định số 110-NV chia lại các quận. Từ sáu quận, Sài Gòn được chia thành tám quận (được đánh số từ 1 đến 8): các quận 1, 2, 3 giữ như cũ, song quận 4 (cũ) chia đôi thành quận 5 và quận 8; quận 5 (cũ) chia thành quận 6 và quận 7; quận 6 (cũ) đổi tên thành quận 4. Dưới quận là phường (có 54 phường), dưới phường là khóm. Đầu năm 1967, hai xã An Khánh và Thủ Thiêm của quận Thủ Đức, tỉnh Gia Định kế cận, được sáp nhập vào Đô thành Sài Gòn lập nên Quận 9. Tháng 7 năm 1969 thành lập Quận 10, Quận 11 trên cơ sở tách một phần Quận 5 và Quận 6. Lúc này thành phố có diện tích 71 km² với dân số khoảng 2 triệu người.
Vào thập niên 1950-60, thời Tổng thống Ngô Đình Diệm, Saigon tiếp tục phát triển rực rỡ và được mệnh danh là "Hòn ngọc Viễn Đông" (The Pearl of the Far East) hay "Paris Viễn Đông" (Paris de l'Extrême-Orient), với một hạ tầng cơ sở được xây dựng khá hoàn chỉnh. Tuy nhiên, do chiến cuộc leo thang từ giữa cuối thập niên 1960, chính quyền Sài gòn cùng người Mỹ đã cho xây dựng ồ ạt các công trình phục vụ chiến tranh. Rồi sau đó là phong trào "thương phế binh cắm dùi" của cựu chiến binh quốc gia vào đầu thập niên 1970, khiến cho kiến trúc Sài Gòn không còn như ban đầu. Tới lúc giải phóng 30 tháng 4 năm 1975, cả thành phố hoang tàn, bừa bộn, kiến trúc đường xá thay đổi tùy tiện, nhà cửa phát triển tự do theo kiểu "ống hóa".
[sửa] Chiến tranh Việt Nam
Ngày 30 tháng 4 năm 1975 Quân đội Nhân dân Việt Nam (miền Bắc) tấn công và Sài Gòn thất thủ. Chính quyền Việt Nam Cộng hòa bị giải thể và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng Hòa miền Nam Việt Nam - nằm dưới sự chỉ đạo của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - quản lý miền Nam.
[sửa] Mang tên mới
Ngày 2 tháng 7 năm 1976, Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam thống nhất đổi tên nước thành Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đồng thời đặt lại tên cho thành phố theo tên của chủ tịch đầu tiên của nước, Hồ Chí Minh. Cho đến nay, tên cũ Sài Gòn vẫn được sử dụng rất phổ biến, đặc biệt trong các ngữ cảnh không chính thức.
Đồng thời với việc đổi tên, các quận của tỉnh Gia Định cũ, quận Củ Chi của tỉnh Hậu Nghĩa cũ, quận Phú Hòa của tỉnh Bình Dương cũ được nhập vào Thành phố Hồ Chí Minh. Trong nội thành, giải thể Quận 9, trả 2 phường (đổi thành 2 xã) về Thủ Đức, Quận 1 và Quận 2 nhập thành Quận 1 mới, Quận 7 và Quận 8 nhập thành Quận 8 mới. Xã Phú Nhuận nâng cấp thành quận Phú Nhuận. Hai xã Bình Hòa và Thạnh Mỹ Tây hợp lại thành quận Bình Thạnh. Quận Gò Vấp và Quận Tân Bình được đưa vào nội thành. Các quận ngoại thành đổi thành các huyện.
[sửa] Một số sự kiện lịch sử của Sài Gòn
- Ngày 17 tháng 2 năm 1859, quân Pháp mở cuộc tấn công thành Sài Gòn (tức thành Gia Định) và một ngày sau thì chiếm được thành. Án sát Lê Tứ, Hộ đốc Vũ Duy Ninh tự vẫn, Đề đốc Trần Trí, Bố chánh Vũ Thực và Lãnh binh Tôn Thất Năng đem quân rút về Tây Thái, huyện Bình Long.
- Ngày 8 tháng 3 năm 1859, quân Pháp đốt cháy kho tàng, phá hủy thành Sài Gòn và rút ra để tránh quân triều đình nhà Nguyễn tấn công đánh chiếm lại thành. Tháng 12 cùng năm quân Pháp mở rộng sự chiếm đóng ra khu vực Chợ Lớn.
- Tháng 8 năm 1859, Nguyễn Tri Phương được cử giữ chức Tổng thống quân vụ, vào chỉ huy quân thứ Gia Định chống Pháp. Tháng 12 cùng năm, theo đề nghị của ông, Phạm Thế Hiển được cử làm Tham tán quân thứ Gia Định.
- Ngày 25 tháng 2 năm 1860, Đại đồn Chí Hòa thất thủ, Nguyễn Tri Phương bị trọng thương.
- Ngày 13 tháng 1 năm 1863, Pháp khánh thành Sở Bưu điện Sài Gòn.
- Ngày 1 tháng 1 năm 1864, tờ Le Courrier de Sài Gòn (Tin Sài Gòn) ra số đầu tiên.
- Từ ngày 23 tháng 2 năm 1868 đến 25 tháng 9 năm 1869, xây dựng Tòa Soái phủ Nam Kỳ (sau là Phủ Thống đốc, rồi Phủ Toàn quyền Đông Dương, thường được gọi là Dinh Gia Long).
- Ngày 1 tháng 7 năm 1882, tuyến đường xe điện đầu tiên ở Việt Nam dài 5 km, rộng 1 m, nối Sài Gòn và Chợ Lớn bắt đầu hoạt động.
- Năm 1882, thành lập Thư viện Sài Gòn.
- 1901: Tờ báo chữ Việt Nông cổ mín đàm ra đời.
- 1902: Xây cầu Bình Lợi trên sông Sài Gòn.
- 1903: Đường tàu điện nội hạt của Sài Gòn được xây dựng.
- 1908: Dinh Xã Tây, nay là trụ sở Ủy ban Nhân dân thành phố (được khởi công xây dựng từ tháng 3 năm 1898), hoàn thành và được đưa vào sử dụng.
- 1910: Chiếc máy bay xuất hiện đầu tiên trên bầu trời Việt Nam hạ cánh xuống Sài Gòn.
- 1914: Xây cất xong chợ Bến Thành.
[sửa] Hình ảnh Sài Gòn cổ xưa
[sửa] Hình ảnh Sài Gòn trong văn hóa
[sửa] Nhạc
- Những bài hát nói về Sài Gòn của nhạc sĩ Y Vân
- Vở nhạc kịch Miss Saigon
- Ban nhạc rock "Saigon kick" (Cú đá Sài Gòn)
- Ca sĩ nhạc rap Saigon
[sửa] Phim
- Người tình (L'Amant - 1991, đạo diễn: Jean-Jacques Annaud, dựa theo tiểu thuyết cùng tên của Marguerite Duras)
- Indochine (1992, đạo diễn: Régis Wargnier, diễn viên: Catherine Deneuve, đoạt giải Oscar cho phim ngoại quốc hay nhất)
- Người Mỹ trầm lặng (The Quiet American - 2002, đạo diễn: Philip Noyce, dựa theo tiểu thuyết cùng tên của Graham Greene)
[sửa] Truyện
- L'Amant và L'amant de la Chine du Nord của Marguerite Duras
- L'adieu à Saïgon của Jean Lartéguy
- Les civilisés của Claude Farrère
- Soleil au ventre, Mort en fraude và Les asiates của Jean Hougron
- Jade của Michel Tauriac
- La ligne de force của Pierre Herbart
- Le roi lepreux của Pierre Benoit
- The Quiet American của Graham Greene
[sửa] Liên kết ngoài
- Bản đồ hành chính TP. Hồ Chí Minh
- Bản đồ tại Nhà Xuất bản Bản đồ
- Thành phố Hồ Chí Minh
- Bản đồ TP. Hồ Chí Minh
- Báo Sài Gòn Giải Phóng Online
- Sài Gòn Xưa và Nay
- Trung tâm thông tin Sài Gòn
- Nguồn gốc và Ý nghĩa của tên Sài Gòn
- Thoáng Sài Gòn - "Trái tim - Tâm hồn người Sài Gòn"
- Sở du lịch TP. Hồ Chí Minh
- Tổng công ty du lịch Sài Gòn