Miss Saigon
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Miss Saigon là một vở nhạc kịch sáng tác bởi Claude-Michel Schönberg và Alain Boublil, lời do Richard Maltby, Jr.. Công diễn lần đầu tiên tại Nhà hát Hoàng Gia, Drury Lane, tại London vào ngày 20 tháng 9 năm 1989, và đóng cửa vào ngày 30 tháng 10 năm 1999 sau 4264 buổi trình diễn. Vào ngày 11 tháng 4 năm 1991, vở nhạc kịch này được trình diễn tại Nhà hát Broadway tại Thành phố New York, và đóng cửa ngày 28 tháng 1 năm 2001, sau 4092 buổi trình diễn.[1]
Miss Saigon là vở nhạc kịch hiện đại phỏng theo vở opera Madame Butterfly của Giacomo Puccini, là một câu chuyện cảm động xoay quanh cuộc tình đau khổ giữa một cô gái người Việt bị bỏ rơi bởi chàng trai người yêu phương Tây. Lấy bối cảnh là Sài Gòn trong thập niên 1970 trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam, và hai nhân vật chính là cô gái quán bar Sài Gòn và một anh lính người Mỹ.
Cảm hứng được lấy từ một tấm ảnh được Schönberg vô ý tìm thấy trong một tạp chí. Trong bức ảnh, một người mẹ Việt Nam đưa đứa con của mình ở sân bay Tân Sơn Nhất lên máy bay đi Mỹ nơi cha đứa trẻ, một người cựu lính Mỹ, sẽ có khả năng cho bé một cuộc sống đầy đủ hơn. Schönberg cho rằng hành động của người mẹ dành cho con mình chính là "sự hi sinh tối thượng". Đây là yếu tố chủ đạo của vở kịch.[2]
Miss Saigon là một trong những ảnh hưởng lớn của châu Âu lên sân khấu Broadway trong thập niên 1980, cùng với các vở nhạc kịch khác như The phantom of the Opera, Cats và Les Misérables.
Mục lục |
[sửa] Lịch sử vở diễn
Từ buổi đầu, Miss Saigon đã được công chiếu thành công tại nhiều thành phố trên thế giới trong đó cóStuttgart và Toronto, nơi nhiều nhà hát mới được thiết kế dành riêng cho buổi diễn, Tháng 12/1994 buổi show ở London trở thành vở nhạc kịch được công chiếu lâu nhất của Nhà hát hoàng gia (Drury Lane), vượt qua kỷ lục của vở My Fair Lady.
Từ khi được công chiếu ở Broadway năm 1991, vở nhạc kịch được ca tụng rộng rãi như vở nhạc kịch hay nhất trong năm, thành công cả về lợi nhuận và được giới phê bình khen ngợi. Vở kịch đã phá nhiều kỷ lục Broadway về số vé được bán trước, giá vé cao nhất $100, và thu lại đầu tư dưới 39 tuần. [3] Mặc dù nhận được nhiều giải thưởng và ca ngợi, vở kịch đã mất giải Vở nhạc kịch hay nhất trong năm 1989/90Laurence Olivier Awards vào tay Return to the Forbidden Planet tại London và năm 1991, mất giải Tony Awards vào tay vở Will Rogers Follies.[1]
[sửa] Tóm tắt nội dung
Bối cảnh Miss Saigon diễn ra từ năm 1975 đến 1978. Chuyện kể về tình yêu giữa Chris, một chàng lính Hải quân Hoa Kỳ, phục vụ cho đại sứ quán ở Sài Gòn trong đêm thành phố rơi vào tay cộng sản vào tháng 5 năm 1975, và Kim, một cô gái trẻ người Việt, mồ côi bởi chiến tranh, bắt buộc phải đến làm tại một quán bar/nhà chứa ở Sài Gòn. Hoàn cảnh đã khiến hai người qua đêm cùng nhau, mặc dù lưỡng lự. Sau đó yêu nhau thắm thiết mặc cho sự e ngại ban đầu. Những biến cố đêm sơ tán người Mỹ khỏi Sài Gòn đã khiến Chris lạc mất Kim, và anh bắt buộc phải trở lại Mỹ. Ba năm sau đó, hai người vẫn luôn trăn trở, nhớ về người yêu.
Song song với chuyện tình giữa Chris và Kim, câu chuyện còn đề cập tới nhân vật Kỹ Sư, một ông "tú bà" chủ của Kim. Hắn mơ ước được sang Mỹ để sống [[giấc mơ Mỹ], nhưng sau khi chiến tranh kết thúc, tham vọng của hắn bị đập tan dưới chính phủ mới ở Việt Nam. Kỹ Sư, Kim và bé Tâm (con trai của Kim và Chris) vượt biên sang Thái Lan. Tại đây ba người bắt buộc phải quay lại nghề mại dâm/tú bà để kiếm sống.
Sau ba năm Chris đã cưới một phụ nữ Mỹ tên Ellen. John, bạn cũ thời chiến của anh, nay đang làm trong tổ chức trợ giúp những đứa con lai có cha Mỹ bị bỏ rơi tại Việt Nam, đã báo tin cho anh Kim còn sống sót, và đã sinh cho anh một đứa con. Hai người đoàn tụ ngắn ngủi ở Bangkok, và Kim được biết người yêu mình đã có vợ và (tương tự như tình tiết trong Madame Butterfly), cô đã tự vẫn để đảm bảo cho đứa con trai hai tuổi của mình có một cuộc sống tốt đẹp hơn với cha ở Mỹ.
Mặc dù câu chuyện rất đau thương, những bản nhạc tuyệt vời với chiều sâu cảm xúc của Miss Saigon khiến cho vở kịch được công chúng hoan nghênh trong một thời gian rất dài. Một trong những điểm nhấn là cảnh trực thăng sơ tán những người Mỹ cuối cùng ở Sài Gòn từ nóc nhà đại sứ quán, trong khi đám đông người Việt bị bỏ lại kêu gào tuyệt vọng phía dưới. Hay là cảnh phía Cộng sản diễu binh thắng trận, hay cảnh quán bar sôi động trong buổi đêm định mệnh.
[sửa] Giải thưởng
[sửa] Giải Tony
Miss Saigon dẫn đầu giải Tony năm 1991 với 10 đề cử. Mặc dù được tiên đoán sẽ giành giải Nhạc kịch xuất sắc nhất, nhưng bị vở nhạc kịch Mỹ The Will Rogers Follies giành hết phần lớn các giải quan trọng. Mặc dù Lea Salonga, Jonathan Pryce và Hinton Battle đều giành được giải thưởng, nhưng đêm trao giải này bị coi là một trong những cuộc tiếm ngôi lớn nhất trong lịch sử nhạc kịch.
Miss Saigon được đề cử và giành những giải Tony sau trong năm 1991:
- Tony Award for Best Musical
- Tony Award for Best Book of a Musical
- Tony Award for Best Original Score
- Tony Award for Best Performance by a Leading Actor in a Musical (Jonathan Pryce) WINNER
- Tony Award for Best Leading Actress in a Musical (Lea Salonga) WINNER
- Tony Award for Best Performance by a Featured Actor in a Musical (Hinton Battle) WINNER
- Tony Award for Best Performance by a Featured Actor in a Musical (Willy Falk)
- Tony Award for Best Scenic Design of a Musical
- Tony Award for Best Lighting Design of a Musical
- Tony Award for Best Choreography
- Tony Award for Best Direction of a Musical[4]
[sửa] Các giải thưởng khác
- 1991 Drama Desk Award Outstanding Actor in a Musical (Jonathan Pryce) WINNER
- 1991 Drama Desk Award Outstanding Actress in a Musical (Lea Salonga) WINNER
- 1991 Drama Desk Award Outstanding Orchestration (Willian D. Brohn) WINNER
- 1991 Drama Desk Award Outstanding Lighting Design (David Hersey) WINNER
- 1991 Theatre World Award (Lea Salonga) WINNER[1]
Miss Saigon nhậc được chỉ trích từ cộng đồng châu Á tại Mỹ vì những vấn đề phân biệt chủng tộc. [5] Originally, Pryce và Burns, hai diễn viên da trắng nhận đóng vai người lai châu Âu/Á, phải dùng phấn màu đồng, lắp mí mắt giả để trông có nét châu Á hơn [6] điều này đã làm một số người nổi giận, so sánh với "minstrel show".[7] Lời hát trong một số bài của Miss Saigoncũng khá nhạy cảm đối với nhiều người châu Á, như lúc nhân vật Kỹ Sư hát "Greasy chinks make life so sleazy/ in the States I'll have a club that's four-starred" (trong bài Giấc mơ Mỹ - American Dream) và "Why was I born of a race that thinks only of rice and hates entrepreneurs?" (trong bài Nếu muốn chết trên giường - If You Want to Die in Bed).[6] Ngoài ra, Miss Saigon còn rập khuôn và lược giản thái quá chân dung phụ nữ châu Á như những người chỉ biết chịu đựng, hoặc lẳng lơ. China Doll. Miss Saigon, giống như vở Madame Butterfly, cũng là một ví dụ điển hình về orientalism trong nghệ thuật phương Tây.
[sửa] Đoàn diễn viên ban đầu tại London
- Jonathan Pryce - Kỹ sư
- Lea Salonga - Kim
- Simon Bowman - Chris
- Peter Polycarpou - John
- Claire Moore - Ellen
- Isay Alvarez - Gigi
- Keith Burns - Thuy
- Monique Wilson Cô gái quán Bar Mimi
- Alvin Cousins - Tâm
[sửa] Trích dẫn
- ^ a b "Internet Broadway Database" http://www.ibdb.com/production.asp?ID=4639
- ^ Schönberg, Claude-Michel. "This Photograph was for Alain and I the start of everything...", October 1995.
- ^ http://www.newsun.com/asians.html
- ^ "The Official Website of the Tony Awards," www.tonyawards.com
- ^ Steinberg, Avi. "Group targets Asian stereotypes in hit musical," Boston Globe, January 2005.
- ^ a b Behr, Edward, and Mark Steyn. The Story of Miss Saigon. New York: Arcade Publishing, 1991.
- ^ Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tênNYT
[sửa] Liên kết ngoài
- Official UK website
- Tiêu bản:Ibdb title