See also ebooksgratis.com: no banners, no cookies, totally FREE.

CLASSICISTRANIERI HOME PAGE - YOUTUBE CHANNEL
Privacy Policy Cookie Policy Terms and Conditions
Britney Spears – Wikipedia tiếng Việt

Britney Spears

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Britney Spears

Thông tin nghệ sĩ
Ngày sinh 2 tháng 12, 1981 (26 tuổi)
Nơi sinh Kentwood, Louisiana
Thể loại Pop, Dance
Nghề nghiệp ca sĩ, nhạc sĩ, diễn viên
Năm hoạt động 1996–nay
Hãng đĩa Jive
Trang web www.britneyspears.com www.britney.com

Britney Jean Spears (sinh ngày 2 tháng 12 năm 1981) là ca sĩ nhạc pop, nhạc sĩdiễn viên người Mỹ. Album đầu tay ...Baby One More Time của cô, phát hành năm 1999, đã đưa Britney trở thành một ngôi sao[1]. 4 album tiếp theo: Oops!... I Did It Again, Britney, In the zone, Blackout cùng tuyển tập các ca khúc thành công Greatest Hits: My prerogative đều đạt được những thành công vang dội, giúp cô nhanh chóng nổi tiếng với tên gọi Công chúa nhạc Pop.[2][1][3][4][5][6][7][8]. Single đầu tay Baby one more time đạt vị trí quán quân tại hầu hết các nước trên thế giới[9]. Trong khi đó đĩa đơn Toxic lại mang về giải Grammy đầu tiên cho ca sĩ với giải "Thu âm nhạc nhảy hay nhất"[10].

Mục lục

[sửa] Tiểu sử

Spears sinh ngày 2 tháng 12 năm 1981 tại McComb, Mississippi và lớn lên tại Kentwood, Louisiana, Mỹ. Bố cô, James Parnell Spears, là một người thầu xây dựng và mẹ cô, Lynne Irene Bridges, là một cô giáo. Giờ hai người đã bỏ nhau. Cô là một trong những ngôi sao nổi tiếng của lứa tuổi mới lớn vào thế kỉ 20.

[sửa] Từ Mickey Mouse club đến ...Baby one more time

Hình tượng Britney trong Baby One More Time khuấy đảo thế giới
Hình tượng Britney trong Baby One More Time khuấy đảo thế giới

Từ bé Britney đã đến nhà thờ trong vùng và tham gia nhảy múa. Năm lên 8, Britney đến thử giọng ở Mickey Mouse Club. Mặc dù lúc đó cô còn quá nhỏ để tham gia nhưng người sản xuất chương trình đã giới thiệu Brit cho một đại lý ở New York. Nhờ vậy Brit được theo học ở trung tâm nghệ thuật chuyên nghiệp Professional Performing Arts School Center trong 3 kỳ nghỉ hè. Britney đã xuất hiện trong nhiều vai diễn nhỏ tuổi, trong đó có vở Ruthless (1991). Sau đó Brit dành được một chỗ đứng trong Mickey Mouse Club của kênh Walt Disney từ năm 11 đến năm 13 tuổi. Sau khi câu lạc bộ tan giã năm 1994, cô trở lại sân khấu như một ca sĩ trưởng thành năm 1999. Britney bắt đầu đến thử giọng cho một ban nhạc pop ở vùng New York. Băng nhạc đầu tiên của Brit cuối cùng đã đến tay của Jeff Fenster, người làm trong hãng đĩa Jive. "Giọng hát của Britney đã làm tôi chú ý ngay," Jeff nói. Jive đã bỏ ra rất nhiều tiền để đầu tư cho Britney, cũng là người đã đưa cô đến thu âm với Eric Foster White (người sản xuất và viết bài cho Boyzone, Whitney Houston và nhiều ca sĩ khác). Họ đã thuê cả nhạc sĩ R&B hàng đầu Max Martin (người đã làm nên danh tiếng của Backstreet Boys) để viết nên bài hát đơn đầu tiên của Brit, "...Baby, One More Time", và một album cùng tên, Baby, One More Time. Họ cũng tạo một số phone đặc biệt để fan có thể gọi đến và nghe nhạc của Britney và những cuộc phỏng vấn về cô miễn phí trong suốt mùa hè năm 1998. Cô cũng đi lưu diễn vòng quanh nước Mỹ để trình diễn, chuyến đi được các tạp chí tuổi teen ở Mỹ tài trợ, và cuối cùng là tham gia lưu diễn cùng ban nhạc N Sync. Một kế hoạch quảng bá kỹ lưỡng như thế đã được đền bù xứng đáng khi "Baby One More Time" và album cùng tên đã tiến lên thẳng vị trí số 1 của bảng xếp hạng của Mỹ vào đầu năm 1999. Bản tình ca êm dịu "Sometimes" và bài hát nghịch ngợm "Crazy" tiếp nối thành công của Baby One More Time, làm mưa làm gió trên các bảng xếp hạng. "Born To Make You Happy" cũng đứng đầu bảng xếp hạng ở Anh vào tháng 1 năm 2000.

[sửa] Oops! I did it again

Lucky - video điển hình cho hình tượng Công chúa nhạc Pop
Lucky - video điển hình cho hình tượng Công chúa nhạc Pop

Thành công của Brit cũng đã thúc đẩy một làn sóng mới của những ca sĩ nữ trẻ đẹp mà đáng chú ý là Christina Aguilera, Jessica SimpsonPink. Nhu cầu về âm nhạc Britney đã được thỏa mãn khi album thứ 2 của cô, Oops!... I Did It Again được tung ra vào tháng 5 năm 2000. Album đã đáp ứng được sự mong đợi với nhiều bản nhạc pop được sản xuất nhà nghề, bao gồm "Lucky", "Stronger", và "Don't Le Me Be The Last To Know", đi cùng với phiên bản cover lại "I Can't Get No Satisfaction" của The Beatles.

Mối quan hệ của Brit và thành viên trong ban nhạc N Sync, Justin Timberlake đã làm cho cô không thoát khỏi sự quan sát khát khao của công chúng, với lời hứa giữ mình cho đến khi kết hôn của Brit. Bên cạnh đó, album Oops I Did It Again như một lời chia tay dành cho các fan hâm mộ trẻ của Britney vì chỉ sau 4 tháng ra album, với phần biểu diễn đi vào lịch sử của một trong những giải thưởng âm nhạc nổi tiếng nhất bên Mỹ - MTV Video Music Awards, Britney đã rũ bỏ hình ảnh của một nàng công chúa nhạc pop thơ ngây và bắt đầu mục đích trở thành một diva thực sự, chọn bài hát, trang phục và cách biểu diễn theo phong cách riêng của mình. Tuy rằng bị mất đi một lượng fan trẻ tuổi khá lớn nhưng Britney cũng đang tiến tới được gần với tai nghe của những người lớn tuổi hơn, chính vì vậy mà album studio thứ 2 của cô tiếp tục đứng ở vị trí số 1 trên Billboard và lập một kỉ lục mới cho Britney nói riêng và làng âm nhạc Mỹ nói chung: Britney là nữ ca sĩ trẻ tuổi nhất có 2 studio album liên tiếp đạt vị trí quán quân ở Billboard ngay tuần đầu tiên phát hành. Cũng cùng với album này, Britney đã có tour diễn đầu tiên vòng quanh thế giới, được phát sóng trực tiếp ở một số nước có rất nhiều fan hâm mộ như MexicoVương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland.

[sửa] Sự trưởng thành của nàng công chúa

Một Britney sexy trong I'm a Slave 4 U
Một Britney sexy trong I'm a Slave 4 U

Album mang tên Britney là album thứ 3 được đưa ra với ý định đưa Britney lên một bậc mới trưởng thành hơn nhưng cũng đồng thời đi ngược lại với hình ảnh của một Britney trong sáng và ngây thơ. Sự tương phản giữa Britney của album đầu tay Baby, One More Time và một Britney quyến rũ gợi cảm trong Britney đã tạo nên ít nhiều tranh luận cho địa vị thần tượng và khuôn mẫu cho những cô bé mới lớn. Mặc dù doanh thu lúc đầu của album không cao như 2 album đầu, Britney vẫn tiến thẳng lên đỉnh của bảng xếp hạng các album ở Mỹ vào thời điểm phát hành là tháng 11 năm 2001. Tưởng chừng như Britney sẽ không bao giờ có thể có được một phần biểu diễn đỉnh hơn phần biểu diễn năm 2000 ở MTV Video Music Awards thì với phần biểu diễn ca khúc "I'm A Slave 4 U" cùng với những chú hổtrăn thật, Britney đã vượt qua được tất cả những phần biểu diễn của bất cứ một ca sĩ nào khác đã từng biểu diễn ở VMA[cần chú thích].

Bộ phim đầu tiên Britney tham gia, Crossroads, được phát hành vào tháng 2 kế đó và đã gợi dậy nhiều sự phê bình. Đây là bộ phim đầu tay của Brit. Nó nói về một nhân vật tên Lucy do Brit thủ vai. Lucy có đam mê được trở thành một ca sĩ nhưng bố cô muốn cô trở thành một bác sĩ. Cô đã bỏ nhà ra đi cùng hai người bạn thân nhất của mình và cô đã gặp anh chàng tên Ben. Ben đã giúp Lucy thực hiện ước mơ được trở thành ca sĩ của mình với chính tài năng thực sự của Lucy. Bộ phim không thành công lắm, nhưng cũng nhận được nhiều sự khen ngợi.

Cũng trong thời gian này, Britney đã kí hợp đồng và sản xuất một đĩa trò chơi Play Station 2 của chính mình được mang tên "Dance Beat" - một trò chơi mà người chơi cần tập luyện nhảy ngày đêm rất nhiều để có thể nhảy nhuần nhuyễn mỗi khi cần đi lưu diễn. Đây là một trong những trờ chơi bán chạy nhất trong năm 2001-2002 và đã nhận được rất nhiều lời khen ngợi. Trờ chơi này còn được sản xuất để phục vụ cho người chơi dùng máy tính và Gameboy Advance.

Để quảng bá album Britney, Brit đã thực hiện liveshow Dream within a dream - tour diễn hoành tráng được ghi vào lịch sử, với hiệu ứng âm thanh ánh sáng cùng sân khấu được thiết kế hiện đại, đánh một cột mốc nữa vào sự nghiệp của Brit. Cô đã trổ hết tài năng ca hát và nhảy múa của mình, như biểu diễn như một robot trong Overprotected, đóng vai cô gái vũ công trong chiếc hộp nhạc ở liên khúc "Born to make you happy", "Lucky", "Sometimes", nhảy cùng với một bản sao vi tính trong "Lonely", lặp lại màn trình diễn bốc lửa trong "I'm a slave for you" và nhảy múa trong cơn mưa nhân tạo trong "...Baby one more time". Liveshow này cũng được phát hành như một DVD thành công của cô.

[sửa] Tiếp tục gặt hái thành công

Toxic- single 1,000,000 đô la với hình ảnh Britney gắn kim cương
Toxic- single 1,000,000 đô la với hình ảnh Britney gắn kim cương

Sau một thời gian im ắng với bao nhiêu sự cố không đáng có xảy ra trong cuộc sống (chia tay với Justin Timberlake; đưa ngón giữa lên trước các paparazzi; hủy show diễn ở Mexico sau khi đã trình diễn một lúc…) thì ít ai có thể ngờ rằng Britney sẽ quay lại và càng ngạc nhiên hơn khi cô quay lại một cách mạnh mẽ với album thứ 4 In The Zone.

Album thứ 4 của Britney đưa cô thoát khỏi hình ảnh của một công chúa nhạc pop tuổi mới lớn, trở thành một thiếu nữ trưởng thành và quyến rũ. Album thể hiện được những nốt nhạc biến tấu đầu tiên và chững chạc một cách đáng ngạc nhiên do chính Brit tự sáng tác. Britney đã hợp tác viết nên 7 trong 12 ca khúc với những tên tuổi kỳ cựu như Red Zone (trong Me Against The MusicThe Hook Up), The Matrix (trong Shadow), Moby (trong Early Morning) và Cathy Dennis (trong ToxicShowdown). Đồng thời có sự đóng góp của những nhân vật tạo hit như R. Kelly (Outrageous) và Ying-Yang Twins (Boom Boom). Và không thể không nhắc đến sự xuất hiện quan trọng của biểu tượng nhạc pop Madonna, người đã thổi giọng hát của mình vào ca khúc đơn "Me Against The Music". Được kết hợp với con người có sức ảnh hưởng vượt thời gian như Madonna là một hiện thực đã đến từ trong giấc mơ của Britney. "Sự việc đã vượt quá khả năng diễn tả của ngôn ngữ," Brit nói. Cả hai đã tạo nên một mối dây ràng buộc chặt chẽ trong thời gian diễn tập cho cuộc trình diễn khá tai tiếng trên MTV Video Music Awards vào mùa thu 2003 (khi Madonna đã trao nụ hôn đồng tính cho Britney Spears và cả Christina Aguilera khi ba người đang biểu diễn trên sân khấu). "Khi chúng tôi cùng làm việc, có lúc tôi vẫn không tin rằng mình đang đứng kế bên Madonna. Đó là điều mà trong mơ tôi còn chưa bao giờ dám nghĩ."

[sửa] 2007: Trở lại

Bài chi tiết: Blackout (album của Britney Spears)
Britney trở lại trong Piece of me
Britney trở lại trong Piece of me

Blackout là album trở lại của Britney kể từ In the Zone (2003). Album do chính Spears làm giám đốc sản xuất với đồng sản xuất là Danja. Tuy được giới phê bình đánh giá cao nhưng album chỉ đạt được vị trí thứ hai tại Billboard với 290,000 bản bán được trong tuần dầu tiên. (Trước đó In the Zone đạt 609.000 bản). Đây cũng là album studio duy nhất của Spears không đạt được vị trí quán quân trong tuần đầu ra mắt, sau 4 album thành công liên tiếp trước đó.

Đĩa đơn đầu tiên của album, Gimme More phát hành đầu tháng 9 năm 2007 đã đạt vị trí quán quân tại Canada và hạng 3 tại Mỹ, vị trí cao nhất kể từ "...Baby one more time" mặc dù màn trình diễn ca khúc này của cô tại lễ trao giải MTV Video Music Awards 2007 bị cho là quá nghèo nàn và tẻ nhạt.

Đĩa đơn thứ hai Piece of Me được đầu tư tới 500,000 đô la sẽ được dự đoán sẽ đánh dấu sự trở lại của Britney khi nhận được đánh giá rất cao từ các chuyên gia.[11]

[sửa] Scandals

Nụ hôn kiểu Pháp giữa Britney và Madonna.
Nụ hôn kiểu Pháp giữa Britney và Madonna.

Britney cũng là ca sĩ có nhiều tai tiếng. Năm 2003 cô biểu diễn và hôn thần tượng của mình là Nữ hoàng nhạc pop Madonna gây một cú shock lớn trong dư luận về vấn đề giới tính của hai người.

Cuộc hôn nhân tan vỡ với Kevin Federline dẫn đến một loạt những phiên tòa tranh quyền nuôi 2 con trai Sean Preston và Jayden James. HIện tại Britney chỉ được đến thăm các con hàng ngày[12].

Năm 2004, Britney có một cuộc hôn nhân 55 giờ với Jason Allen Alexander, kéo dài từ ngày 3 tháng 1 đến ngày 5 tháng 1 [13]

Năm 2006, sau khi li dỵ Kevin Federline, cô kết thân với Paris Hilton trong các bữa tiệc thâu đêm và có lần để lộ bên trong không mặc quần lót[14]. Đến đầu năm 2007, cô gây xôn xao dư luận khi cạo trọc mái tóc vàng óng của mình (Tóc thật của Britney màu nâu) và vào trại cai nghiện[15].

[sửa] Danh sách đĩa hát

[sửa] Album phòng thu

  • 1999: ...Baby One More Time
  • 2000: Oops!... I Did It Again
  • 2001: Britney
  • 2003: In the Zone
  • 2007: Blackout

[sửa] Các album khác

  • 2004: Greatest Hits: My Prerogative
  • 2005: Someday (I Will Understand) EP
  • 2005: B in the Mix: The Remixes

[sửa] DVD

  • 1999: Time Out with Britney Spears
  • 2000: Live and More!
  • 2001: Britney: The Videos
  • 2002: Live from Las Vegas
  • 2004: In the Zone
  • 2004: Greatest Hits: My Prerogative
  • 2005: Britney & Kevin: Chaotic

[sửa] Tours

  • 1998: Hair Zone Mall Tour
  • 1999: ...Baby One More Time Tour
  • 2000: Crazy 2K Tour
  • 2000: Oops!... I Did It Again World Tour
  • 2001: Dream Within a Dream Tour
  • 2004: The Onyx Hotel Tour
  • 2007: The M+M's Tour

[sửa] Những đĩa đơn thành công

Năm Đĩa đơn Bảng xếp hạng
1998 "...Baby One More Time" 1 1 1 1 1 1 1
1999 "(You Drive Me) Crazy" 10 5 13 12 4 2 1
"Born to Make You Happy" không phát hành 1 21 không phát hành 3 9 1
2000 "Oops!...I Did It Again" 9 1 4 1 2 4 1
"Lucky" 23 5 50 3 1 16 2
2003 "Me Against the Music" (với Madonna) 35 2 2 1 5 11 1
2004 "Toxic" 9 1 1 1 4 3 1
"Everytime" 15 1 2 1 4 2 1
2007 "Gimme more" 3 2 1 1 7 5 2
Tổng số 1 5 3 6 2 1 7

[sửa] Tham khảo

  1. ^ a b editors from FOXNews.com (13 September 2007). "Britney Spears biograghy from Fox News". FOX News. Được truy cập ngày 2007-10-22.
  2. ^ editors from alwayscelebrity.com (2003). "Biography of Britney Spears on Always Celebrity". Always Celebrity. Được truy cập ngày 2007-09-18.
  3. ^ Rock on the Net Editors (2006). "Rock on the Net:Britney Spears". rockonthenet.com. Được truy cập ngày 2006-05-01.
  4. ^ Richard Skanse (May 25 2005). "Oops!... She Sold 1.3 Million Albums". Rolling Stone magazine. Được truy cập ngày 2007-02-11.
  5. ^ Andrew Dansby (November 14 2001). "Britney's "Britney" Is Tops". Rolling Stone magazine. Được truy cập ngày 2007-02-11.
  6. ^ Yahoo! Music Staff (December 1 2003). "Britney Spears Sells 609,000 Copies Of 'In The Zone'". music.yahoo.com. Được truy cập ngày 2007-02-20.
  7. ^ CBBC editors (October 18 2004). "Britney takes a break from music". news.bbc.co.uk. Được truy cập ngày 2007-03-03.
  8. ^ Stephen Thomas Erlewine (2007). "All Music Guide review of Blackout". Được truy cập ngày 2007-12-20.
  9. ^ Editors from allmusic.com (2006). "Britney Spears Single Charts". All Music Guide. Được truy cập ngày 2007-10-21.
  10. ^ Sony Music Blog Staff (February 14 2005). "Britney Spears Wins Her First Grammy Award...". blog.sonymusic.com. Được truy cập ngày 2007-02-19.
  11. ^ http://en.wikipedia.org/wiki/Piece_of_Me
  12. ^ http://www.dantri.com.vn/giaitri/Britney-Spears-duoc-tham-con-hang-ngay/2007/10/199801.vip
  13. ^ http://vnexpress.net/Vietnam/Van-hoa/2004/01/3B9CEA6E/ Britney Spears bí mật kết hôn
  14. ^ http://vnexpress.net/Vietnam/Van-hoa/2006/11/3B9F0DE8/
  15. ^ http://vnexpress.net/Vietnam/Van-hoa/2007/02/3B9F35D8/

[sửa] Liên kết ngoài

Các giải thưởng quan trọng
Tiền nhiệm:
Kylie Minogue
với "Come Into My World"
Giải Grammy cho thu âm nhạc nhảy hay nhất
2005
với Toxic
Kế nhiệm:
The Chemical Brothers
với "Galvanize"



aa - ab - af - ak - als - am - an - ang - ar - arc - as - ast - av - ay - az - ba - bar - bat_smg - bcl - be - be_x_old - bg - bh - bi - bm - bn - bo - bpy - br - bs - bug - bxr - ca - cbk_zam - cdo - ce - ceb - ch - cho - chr - chy - co - cr - crh - cs - csb - cu - cv - cy - da - de - diq - dsb - dv - dz - ee - el - eml - en - eo - es - et - eu - ext - fa - ff - fi - fiu_vro - fj - fo - fr - frp - fur - fy - ga - gan - gd - gl - glk - gn - got - gu - gv - ha - hak - haw - he - hi - hif - ho - hr - hsb - ht - hu - hy - hz - ia - id - ie - ig - ii - ik - ilo - io - is - it - iu - ja - jbo - jv - ka - kaa - kab - kg - ki - kj - kk - kl - km - kn - ko - kr - ks - ksh - ku - kv - kw - ky - la - lad - lb - lbe - lg - li - lij - lmo - ln - lo - lt - lv - map_bms - mdf - mg - mh - mi - mk - ml - mn - mo - mr - mt - mus - my - myv - mzn - na - nah - nap - nds - nds_nl - ne - new - ng - nl - nn - no - nov - nrm - nv - ny - oc - om - or - os - pa - pag - pam - pap - pdc - pi - pih - pl - pms - ps - pt - qu - quality - rm - rmy - rn - ro - roa_rup - roa_tara - ru - rw - sa - sah - sc - scn - sco - sd - se - sg - sh - si - simple - sk - sl - sm - sn - so - sr - srn - ss - st - stq - su - sv - sw - szl - ta - te - tet - tg - th - ti - tk - tl - tlh - tn - to - tpi - tr - ts - tt - tum - tw - ty - udm - ug - uk - ur - uz - ve - vec - vi - vls - vo - wa - war - wo - wuu - xal - xh - yi - yo - za - zea - zh - zh_classical - zh_min_nan - zh_yue - zu -