A6M-Zero
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Mitsubishi A6M | |
---|---|
A6M5 đời 0 kiểu 52 | |
Kiểu | Máy bay tiêm kích |
Hãng sản xuất | Mitsubishi |
Chuyến bay đầu tiên | 1 tháng 4 năm 1939 |
Được giới thiệu | tháng 7 năm 1940 |
Tình trạng | nghỉ hưu |
Hãng sử dụng chính | Không lực Hải quân Đế quốc Nhật Bản |
Được chế tạo | 1940-1945 |
Số lượng được sản xuất | 11.000 |
Mitsubishi A6M Zero (A để chỉ máy bay tiêm kích, kiểu thứ 6, M là Mitsubishi) là máy bay tiêm kích hạng nhẹ hoạt động trên tàu sân bay được Không lực Hải quân Đế quốc Nhật Bản sử dụng từ năm 1940 đến năm 1945. Lịch sử của nó phản ảnh vận may của Đế Quốc Nhật trong Thế Chiến II. Vào lúc được giới thiệu, Mitsubishi A6M là máy bay tiêm kích hoạt động trên tàu sân bay tốt nhất thế giới và là nỗi sợ hãi của phi công Đồng Minh.[1] [2] [3] Những chiến thuật được các lực lượng Đồng Minh phát triển trong năm 1942 để đọ sức với Zero cân bằng hơn. Đến năm 1943, các hãng chế tạo Mỹ và Anh đã sản xuất được những máy bay tiêm kích có hỏa lực mạnh hơn, vỏ giáp, tốc độ, và đạt đến khả năng cơ động xấp xỉ Zero. Đến năm 1944, Mitsubishi A6M đã lạc hậu nhưng vẫn còn được sản xuất. Do việc chuyển đổi ưu tiên trong những năm cuối của chiến tranh tại Thái Bình Dương, Zero được sử dụng trong những phi vụ Thần Phong (kamikaze).
Một sự phối hợp tính cơ động tuyệt vời và tầm bay rất xa khiến nó trở thành một máy bay tiêm kích xuất sắc vào thời nó. Trong những hoạt động chiến đấu ban đầu, Zero được sự ngưỡng mộ gần như huyền thoại, qua mặt những chiếc cùng thời. Sau này, yếu kém về thiết kế và sự khan hiếm động cơ mạnh khiến Zero trở nên kém hiệu quả để chống lại những máy bay tiêm kích mới.
Nó được biết đến nhiều nhất bằng tên gọi Zero do tên hiệu của Hải quân Nhật: máy bay chiến đấu trên tàu sân bay đời 0 (tiếng Nhật: 零式艦上戦闘機, Rei shiki Kanjo sentoki), lấy từ hai số cuối của Năm đế chế (Nhật) 2600 (1940), khi nó được đưa vào hoạt động. Tại Nhật nó được gọi không chính thức là Rei-sen hay Zero-sen. Tên mã chính thức do Đồng Minh đặt là Zeke (và Hamp cho phiên bản A6M3 kiểu 32); trong khi nó theo một tiêu chuẩn thực hành là đặt tên con trai cho máy bay tiêm kích, vẫn không biết chắc là tên này được chọn vì tương tự với "Zero."
Mục lục |
[sửa] Thiết kế và phát triển
Chiiếc máy bay tiêm kích Mitsubishi A5M vừa mới được đưa vào sử dụng vào đầu năm 1937 khi Hải quân Đế quốc Nhật Bản bắt đầu tìm kiếm một kiểu thay thế nó sau này. Vào tháng 5 họ phát hành tiêu chuẩn 12-Shi cho một máy bay tiêm kích hoạt động trên tàu sân bay và gửi đến Nakajima và Mitsubishi. Cả hai công ty khởi sự những công việc thiết kế sơ thảo trong khi chờ đợi những yêu cầu chi tiết hơn sẽ được gửi sau vài tháng.
Căn cứ vào những kinh nghiệm của chiếc A5M tại Trung Hoa, Hải quân gửi đến những yêu cầu được cập nhật vào tháng 10. Nó bao gồm một vận tốc 500 km/h ở độ cao 4.000 m và tốc độ lên cao 3.000 m trong vòng 3,5 phút. Nó phải bay được 2 giờ tốc độ tối đa hoặc 6 đến 8 giờ ở tốc độ bay đường trường với thùng nhiên liệu phụ vứt được. Vũ khí bao gồm 2 pháo 20 mm và 2 súng máy 7,7 mm, với 2 quả bom 30 kg hay 60 kg. Liên lạc radio đầy đủ phải được trang bị cho mọi máy bay, kèm theo một bộ định hướng radio để dẫn đường tầm xa. Độ cơ động phải ít nhất tương đương với A5M, trong khi sải cánh phải ngắn hơn 12 m để vừa cho các tàu sân bay.
Nhóm thiết kế Nakajima nghĩ rằng những yêu cầu trên không thể đạt được và rút lui khỏi cuộc cạnh tranh vào tháng 1 năm 1938. Jiro Horikoshi, thiết kế trưởng của Mitsubishi, cảm thấy có thể đạt được nếu chiếc máy bay được làm càng nhẹ càng tốt. Mọi biện pháp làm nhẹ cân được dùng, như sử dụng rộng rãi hợp kim nhôm (duralumin). Với cánh đơn gắn thấp dạng bao lơn, càng đáp rộng xếp được và buồng lái kín, thiết kế không chỉ rất hiện đại hơn mọi kiểu Hải quân đã dùng, mà còn là một trong những kiểu hiện đại nhất trên thế giới.
Tuy vậy A6M được thiết kế khắc khổ hơn máy bay Tây Âu. Không giống các chiếc máy bay tiêm kích cùng thời, không có vỏ giáp để bảo vệ phi công, và không có thùng nhiên liệu tự hàn kín. Hầu hết thân máy bay được làm bằng nhôm T-7178, một cải tiến tuyệt mật được phát triển bởi người Nhật cho mục đích này. Nó nhẹ và chắc hơn nhôm thường thời đó, nhưng dòn hơn. Zero có bộ cánh nâng được nhiều ở tốc độ chậm và áp lực cánh rất thấp, cho phép nó có một tốc độ chòng chành rất thấp dưới 60 knot. Đây là nguyên nhân của khả năng lượn vòng (đặt một áp lực G trên cánh khi lượn vòng trước khi xảy ra sự gia tốc chòng chành) của chiếc này, cho phép nó lượn gắt hơn mọi máy bay tiêm kích Đồng Minh thời đó. Tốc độ lộn vòng được tăng cường bởi tấm lái thăng bằng đặt trên cánh nhỏ sẽ được làm lệch ngược chiều lại cánh nhỏ giúp giảm nhẹ lực điều khiển. Điểm bất lợi là nó sẽ làm giảm hiệu quả lộn vòng tối đa. Ở tốc độ 260 km/h (160 mph) A6M2 có tốc độ lộn vòng 56° mỗi giây. Vì độ linh hoạt của cánh, hiệu quả lộn vòng còn gần bằng 0 ở tốc độ 300 mph.
Quân đội Mỹ tìm thấy nhiều đặc tính độc đáo của A6M khi họ thu được một mẫu gần như nguyên vẹn tại Alaska. Viên phi công Nhật bị lạc quá xa khỏi căn cứ và hy vọng đáp khẩn cấp xuống lãnh thổ Hoa Kỳ, nhưng máy bay bị lật và ông ta bị gảy đốt sống cổ.
[sửa] Lịch sử hoạt động
Kiểu A6M2 Zero bắt đầu được biết đến trong những năm 1940-1941, khi nó lập 266 chiến công không chiến tại Trung Hoa. Vào thời gian Trận đánh Trân Châu Cảng, có 420 chiếc Zero hoạt động ở Thái Bình Dương. Kiểu 21 trang bị trên tàu sân bay là loại đối đầu với người Mỹ, hoạt động xa các tàu sân bay hơn là người ta nghĩ, với tầm hoạt động chiến đấu lên đến 1.600 dặm (2.600 km). Ở nhiều khía cạnh, máy bay tiêm kích Zero hơn hẵn tất cả những chiếc của Đồng Minh tại Thái Bình Dương vào năm 1941, và nhanh chóng đạt được sự ngưỡng mộ lớn. Dù sao, Zero không thể đạt được ưu thế trên không tuyệt đối vì những chiến thuật phù hợp và máy bay mới của Đồng Minh. Trong suốt Thế chiến II, Zero diệt được ít nhất 1.550 máy bay Mỹ.
Phi công "Ách" Nhật Bản Saburo Sakai mô tả khả năng chịu đựng tổn hại của máy bay Đồng Minh thời đầu, là yếu tố ngăn chặn Zero trở thành kẻ chiếm lĩnh hoàn toàn như sau: [4] "Tôi tự tin khả năng của mình có thể tiêu diệt chiếc Grumman và quyết định kết liễu máy bay đối phương chỉ với súng máy 7.7mm. Tôi xoay khóa khẩu pháo 20mm về vị trí "tắt", rồi áp sát vào. Vì một lý do lạ lùng nào đó, cho dù tôi đã nả năm hay sáu trăm viên đạn thẳng vào chiếc Grumman, nó không rơi mà tiếp tục bay. Tôi thấy đây thật lạ lùng - chưa xảy ra bao giờ - và áp sát hơn nữa cho đến lúc gần như đưa tay ra chạm được vào chiếc Grumman. Tôi thật ngạc nhiên, đuôi và cánh lái của nó bị xé tan từng mảnh trông như miếng giẻ rách cũ. Với máy bay của hắn như thế, chả trách viên phi công không thể nào tiếp tục chiến đấu! Một chiếc Zero chịu đựng từng ấy viên đạn ắt bây giờ đã là một quả cầu lửa rồi."
Được thiết kế để tấn công, Zero dành ưu tiên cho độ cơ động và hỏa lực đánh đổi sự bảo vệ — hầu hết không có thùng nhiên liệu tự hàn hay vỏ giáp — nên nhiều chiếc Zero kèm theo phi công bị mất dễ dàng trong chiến đấu. Thú vị là, trong những giai đoạn đầu của chiến cuộc Thái Bình Dương, người Nhật huấn luyện phi công của họ kỹ lưỡng hơn Đồng Minh, nhưng tổn thất phi công nặng nề không lường trước tại Trận chiến Biển San Hô và Trận Midway làm cho họ rất khó được bù đắp.
Với sự nhanh nhẹn cực kỳ của Zero, phi công Đồng Minh nhận ra rằng chiến thuật không chiến thích hợp chống lại Zero là giữ khoảng cách bên ngoài tầm bắn và tấn công lúc lên cao hay bổ nhào. Bằng cách dùng tốc độ và tránh sai lầm chết người muốn lượn vòng theo chiếc Zero, sau này pháo hay súng máy hạng nặng có thể mang theo, và chỉ cần một phát nổ duy nhất cũng thường đủ hạ chiếc Zero. Những chiến thuật này, gọi là boom-and-zoom (bắn và dzọt), được áp dụng thành công tại Mặt trận Trung Hoa-Miến Điện-Ấn Độ bởi Nhóm phi công Tình nguyện Hoa Kỳ (AVG: American Volunteer Group) của Đội Phi Hổ (Flying Tigers) chống lại những máy bay Nakajima Ki-27 và Ki-43 có độ cơ động tương đương của Lục quân Nhật. Phi công AVG được huấn luyện để khai thác ưu thế của những chiếc Curtiss P-40; rất chắc chắn, vũ khí mạnh, nhanh hơn khi bổ nhào và khi bay ngang ở cao độ thấp, và tốc độ lộn vòng tốt.
Một cách cơ động quan trọng khác được đặt tên là "Thach Weave," đặt theo tên người đã phát minh ra nó, Thiếu tá John S. "Jimmy" Thach. Nó đòi hỏi 2 máy bay: chỉ huy và đồng đội, sẽ bay cách nhau khoảng 200 ft. Khi một chiếc Zero bám theo đuôi một trong hai chiếc của đội bay, hai chiếc sẽ lượn vòng hướng vào nhau. Nếu chiếc Zero tiếp tục theo đuổi mục tiêu ban đầu, nó sẽ lọt vào tầm ngắm của chiếc kia. Chiến thuật này được dùng với kết quả mỹ mãn tại Trận chiến Biển San Hô và trận Midway, giúp bù đắp cho sự yếu kém của những chiếc máy bay Mỹ cho đến khi những kiểu máy bay mới được đưa vào sử dụng.
Khi những chiếc Grumman F6F Hellcat, Vought F4U Corsair và Lockheed P-38 xuất hiện tại mặt trận Thái Bình Dương, A6M với động cơ yếu kém đã mất tính cạnh tranh. Tỉ lệ thắng:thua trong không chiến của Hải quân Mỹ đang là 1:1 đột ngột tăng vọt lên trên 10:1. Trong khi Hellcat và Corsair nói chung được đánh giá tốt hơn toàn diện chiếc Zero, sự thành công này cũng là do số phi công Nhật không có kinh nghiệm đã gia tăng.
Dù sao, cho đến cuối chiến tranh, trong những bàn tay giỏi, Zero vẫn đáng sợ. Do sự thiếu hụt động cơ máy bay công suất cao và những sự cố xảy ra cho những kiểu máy bay thay thế, Zero tiếp tục được sản xuất đến năm 1945, với hơn 11.000 chiếc thuộc tất cả các kiểu được chế tạo.
[sửa] Các biến thể
- A6M1, Đời 0 Nguyên mẫu
Chiếc nguyên mẫu A6M1 đầu tiên hoàn tất tháng 3 năm 1939, gắn động cơ Mitsubishi Zuisei-13 công suất 780 mã lực (580 kW) với bộ cánh quạt 2-cánh. Nó cất cánh lần đầu ngày 1 tháng 4, và vượt qua các thử nghiệm trong thời gian khá ngắn. Đến tháng 9 nó sẵn sàng cho Hải quân thử nghiệm với tên Máy bay A6M1 Tiêm kích từ tàu sân bay Đời 0, chỉ với một thay đổi đáng chú ý là cánh quạt 3-cánh để loại trừ rung động.
- A6M2, Đời Type 0 Kiểu 11
Trong khi Hải quân còn đang thử 2 chiếc nguyên mẫu, họ đề nghị chiếc thứ 3 sẽ gắn động cơ Nakajima Sakae-12 940 mã lực (700 kW) thay vào đó. Mitsubishi cũng có động cơ cùng hạng của riêng họ là Mitsubishi Kinsei, nên họ rất miễn cưỡng khi sử dụng Sakae. Dù sao khi chiếc A6M2 đầu tiên hoàn tất vào tháng 1 năm 1940, sức mạnh vượt trội hơn của động cơ Sakae thúc đẩy tính năng bay cải thiện rõ rệt hơn những tiêu chuẩn ban đầu.
Phiên bản mới tỏ ra rất hứa hẹn nên Hải quân đặt hàng 15 chiếc và đưa sang Trung Hoa trước khi thử nghiệm hoàn tất. Chúng đến Mãn Châu vào tháng 7 năm 1940, và tham chiến lần đầu tại Trùng Khánh vào tháng 8. Ở đó nó chứng minh cho thấy là không thể nào đụng chạm đến nó bởi những chiếc Polikarpov I-16 và I-153 vốn là những vấn đề cho chiếc A5M đang được sử dụng. Trong một trận chiến 13 chiếc Zero đã bắn rơi 27 chiếc I-15 và I-16 trong vòng 3 phút mà không bị thiệt hại. Sau khi xem những báo cáo Hải quân lập tức đặt hàng sản xuất hằng loạt dưới tên gọi kiểu 11.
Báo cáo về tính năng bay của Zero gửi về Mỹ một cách chậm chạp, và bị bỏ qua bởi đa số các viên chức quân đội vì họ cảm thấy người Nhật không có khả năng tạo ra những chiếc máy bay tốt như thế.
- A6M2, Đời 0 Kiểu 21
Sau khi chỉ mới giao được 65 chiếc cho đến tháng 11 năm 1940, một cải tiến nữa được đưa vào dây chuyền sản xuất, đó là cánh gập để có thể đậu vừa trên những tàu sân bay. Kiểu 21 ra đời sẽ là phiên bản được sản xuất nhiều nhất thời kỳ đầu chiến tranh. Khi các dây chuyền chuyển sang kiểu tiếp theo, 740 chiếc Kiểu 21 do Mitsubishi và thêm 800 chiếc do Nakajima sản xuất. Hai phiên bản khác của Kiểu 21 được chế tạo với số lượng nhỏ: thủy phi cơ Nakajima A6M2-N "Rufe" (dựa trên Kiểu 11 với thay đổi nhỏ trên cánh đuôi), và phiên bản huấn luyện 2 chỗ ngồi A6M2-K với tổng cộng 508 chiếc do Hitachi và Xưởng Không lực Hải quân Sasebo chế tạo.
- A6M3, Đời 0 Kiểu 32
Cuối năm 1941, Nakajima giới thiệu động cơ Sakae 21 có sử dụng bộ siêu tăng áp 2-tốc độ nhằm có tính năng bay tốt hơn ở tầm cao, cho công suất 1.130 mã lực (840 kW). Kế hoạch dự trù áp dụng kiểu động cơ này lên chiếc Zero trong thời hạn nhanh nhất.
Động cơ Sakae mới hơi nặng và dài hơn do có bộ siêu tăng áp lớn, làm dịch chuyển trọng tâm trên khung máy bay cũ ra phía trước. Để hiệu chỉnh, khung động cơ phải lùi 200 mm (8 inch) về phía buồng lái. Việc này làm giảm dung lượng thùng nhiên liệu chính (đặt ngay sau động cơ) từ 518 L xuống còn 470 L. Cải tiến chính khác là cánh được bỏ bớt phần gấp lên, thành kiểu cánh không gấp. Cánh cũng cho phép có trữ lượng đạn nhiều hơn, đến 100 quả đạn cho mỗi khẩu pháo 20 mm. Những thay đổi này đủ nhiều để phía Mỹ đặt tên mã mới là Hamp, trước khi nhận ra nó chỉ đơn giản là kiểu Zeke mới.
Những thay đổi trên cánh mang lại hiệu quả trong tính năng bay nhiều hơn mong đợi. Cánh nhỏ hơn nên lộn vòng tốt hơn, và sức cản thấp cho phép tốc độ bổ nhào tăng lên đến 360 knot (670 km/h). Điểm bất lợi là giảm tính cơ động và tầm bay do giảm lực nâng cánh và thùng nhiên liệu nhỏ hơn. Phi công thường than phiền về cả hai điểm yếu này, và tầm bay bị giảm ảnh hưởng đáng kể trong chiến dịch Solomons năm 1942.
Kiểu 32 được giao lần đầu vào tháng 4 năm 1942, nhưng chỉ trên dây chuyền sản xuất trong thời gian ngắn với 343 chiếc được chế tạo.
- A6M3, Đời 0 Kiểu 22
Nhằm khắc phục những khiếm khuyết của Kiểu 32, một phiên bản mới của Kiểu 21 cánh gập, chứa nhiên liệu trong cánh và gắn thêm thùng nhiên liệu phụ vứt được 330 L trên mỗi cánh được giới thiệu. Dự trữ nhiên liệu bên trong được tăng lên 570 L giúp lấy lại được tầm bay xa bị mất. Vì khung máy bay được lấy lại từ Kiểu 32 với cùng kiểu động cơ, nó được Hải quân đặt tên Kiểu 22, trong khi Mitsubishi gọi nó là A6M3a. Kiểu mới được bắt đầu sản xuất từ tháng 12 năm 1942, và có 560 chiếc được sản xuất. Một vài kiểu mẫu được sản xuất nhằm đánh giá, được trang bị pháo Kiểu 5 30 mm dưới tên gọi A6M3b (Kiểu 22b).
- A6M4
Tên A6M4 được áp dụng cho hai chiếc A6M2 lắp thử nghiệm động cơ siêu tăng áp Sakae thiết kế để hoạt động ở tầm cao. Công việc thiết kế, cải tiến và thử nghiệm hai chiếc nguyên mẫu này thuộc trách nhiệm của Dai-Ichi Kaigun Gijitshusho (Xưởng không lực Hải quân thứ I) tại Yokosuka trong năm 1943. Việc thiếu thốn hợp kim thích hợp dùng cho việc chế tạo bộ siêu tăng áp cũng như các ống dẫn liên quan, khiến có sự cố các ống dẫn bị vỡ gây cháy và tính năng kém. Vì vậy, việc phát triển tiếp tục kiểu A6M4 bị ngừng lại. Tuy nhiên chương trình này cung cấp các thông tin hữu ích để thiết kế các kiểu trong tương lai, và việc chế tạo được tăng tốc cho kiểu thông dụng hơn A6M5, đang được Jukogyo K.K. của Mitsubishi phát triển.[5]
- A6M5, Đời 0 Kiểu 52
A6M5 là kiểu nâng cấp đơn giản từ A6M3 Kiểu 22, có đầu cánh không gập được và vỏ bọc dầy hơn cho phép tốc độ bổ nhào nhanh hơn, cũng như cải tiến việc thải khí (bốn ống thải mỗi bên) giúp tăng hiệu quả động cơ. Cải tiến cánh thu ngắn để tăng độ lượn vòng của A6M3 không được áp dụng. Các biến thể nhỏ bao gồm:
- A6M5a Đời 52a «Kou», trang bị pháo Kiểu 99-II nạp đạn dây chuyền loại Mk 4 thay cho nạp đạn trống Mk 3 (100 rpg), cho phép trữ lượng đạn nhiều hơn (125 rpg).
- A6M5b Đời 52b «Otsu», gắn kính chống đạn, bộ dập lửa cho thùng nhiên liệu và một súng máy Kiểu 97 7,7 mm (tốc độ đầu đạn 750 m/s với tầm bắn 600 m) gắn trên nắp động cơ được thay bằng súng máy Kiểu 3 mô phỏng Browning 13,2 mm (tốc độ đầu đạn 790 m/s với tầm bắn 900 m) và có 240 viên đạn.
- A6M5c Đời 52c «Hei» có kính chống đạn dày hơn (5.5 cm) và vỏ giáp cho ghế ngồi phi công. Kiểu này cũng trang bị ba súng máy 13,2 mm (một trên nắp động cơ, và một trên mỗi cánh với tốc độ bắn 800 viên mỗi phút), hai pháo Kiểu 99-II 20 mm và thùng nhiên liệu phụ 367 L, thường được thay bằng một quả bom 250 kg.
A6M5 đạt tốc độ 540 km/h và đạt đến độ cao 8.000 m sau gần 10 phút. Các phiên bản khác là kiểu tiêm kích bay đêm A6M5d-S (cải tiến để chiến đấu ban đêm, trang bị một pháo Kiểu 99 20 mm gắn lui vào buồng lái) và kiểu huấn luyện 2-chỗ ngồi A6M5-K "Zero-Reisen"(kiểu l22) cũng do Mitsubishi sản xuất.
- A6M6c
Tương tự A6M5c, nhưng có bình nhiên liệu cánh tự hàn và gắn động cơ Nakajima Sakae 31a có phun hổn hợp nước-methanol để tăng tốc.
- A6M7, Đời 0 Kiểu 63
Tương tự A6M6 nhưng dự định cho vai trò tấn công cảm tử Thần Phong (Kamikaze).
- A6M8
Tương tự A6M6 nhưng gắn động cơ Mitsubishi Kinsei-62, chỉ có hai chiếc nguyên mẫu được chế tạo.
[sửa] Các nước sử dụng
- Không quân Trung Hoa Dân Quốc sử dụng một số nhỏ máy bay chiếm được.
- Indonesia sử dụng một số nhỏ máy bay chiếm được.
- Không lực Hải quân Đế quốc Nhật Bản
[sửa] Đặc điểm kỹ thuật (A6M2 đời 0 Kiểu 21)
Tham khảo: The Great Book of Fighters[6]
[sửa] Đặc tính chung
- Đội bay: 01 người
- Chiều dài: 9,06 m (29 ft 9 in)
- Sải cánh: 12,0 m (39 ft 4 in)
- Chiều cao: 3,05 m (10 ft 0 in)
- Diện tích bề mặt cánh: 22,44 m² (241,5 ft²)
- Trọng lượng không tải: 1.680 kg (3.704 lb)
- Trọng lượng có tải: 2.410 kg (5.313 lb)
- Động cơ: 1 x động cơ Nakajima Sakae 12 bố trí hình tròn, công suất 950 mã lực (709 kW)
[sửa] Đặc tính bay
- Tốc độ lớn nhất: 660 km/h (356 knot, 410 mph)
- Tốc độ nhanh nhất tiêu biểu: 533 km/h (287 knot, 331 mph) ở độ cao 4.550 m (14.930 ft)
- Tầm bay tối đa: 3.105 km (1.675 nm; 1.929 mi)
- Trần bay: 10.000 m (33.000 ft)
- Áp lực cánh: 107,4 kg/m² (22,0 lb/ft²)
- Tỉ lệ công suất/khối lượng: 0,294 W/kg (0,18 hp/lb)
[sửa] Vũ khí
- Súng:
- 2 x súng máy 7,7 mm (0,303 in) kiểu 97 trong nắp động cơ
- 2 × pháo 20 mm (0,787 in) kiểu 99 trên cánh
- Bom:
- 2 × bom 66 lb (30 kg) và
- 1 × bom 132 lb (60 kg) hoặc
- 2 × bom cố định 250 kg (550 lb) để tấn công kiểu Thần Phong (kamikaze)
[sửa] Tham khảo
- ^ Hawks, Chuck. The Best Fighter Planes of World War II. Retrieved 18 January 2007.
- ^ The American and Japanese Air services Compared. Retrieved 18 January 2007.
- ^ Mersky, Peter B. (Cmdr. USNR). Time of the Aces: Marine Pilots in the Solomons, 1942-1944 Retrieved 18 January 2007.
- ^ Saburo Sakai: "Zero"
- ^ A6M4 entry at the J-Aircraft.com website
- ^ Green and Swanborough 2001
- Green, William and Swanborough, Gordon. The Great Book of Fighters. St. Paul, Minnesota: MBI Publishing, 2001. ISBN 0-7603-1194-3.
- Nohara, Shigeru. A6M Zero (In Action #59). Carrollton, Texas: Squadron/Signal Publications, Inc., 1983. ISBN 0-89747-141-5.
- Okumiya, Masatake and Hiroikoski, Jiro (with Caidin, Martin). Zero! The Story of Japan's Air War in the Pacific: 1941-45. New York: Ballantine Books, 1956. No ISBN.
- Sajaida, Henry. The Siege of Rabaul. St. Paul, Minnesota: Phalanx Publishing, 1996. ISBN 1-883809-09-6.
- Sheftall, M.G. Blossoms in the Wind: Human Legacies of the Kamikaze. New York: NAL Caliber, 2005. ISBN 0-451-21487-0.
- Willmott, H.P. Zero A6M. London: Bison Books, 1980. ISBN 0-89009-322-9.
[sửa] Liên kết ngoài
- www.j-aircraft.com: Quotes A6M
- THE MITSUBISHI A6M ZERO at Greg Goebel's AIR VECTORS
- Imperial Japanese Navy's Mitsubishi A6M Reisen
- Planes of Fame Museum's Flightworthy A6M5 Zero
- War Prize: The Capture of the First Japanese Zero Fighter in 1941
[sửa] Nội dung liên quan
[sửa] Máy bay liên quan
- Nakajima A6M2-N
[sửa] Máy bay tương tự
- Bell XP-77
- Curtiss-Wright CW-21
- Curtiss P-40 Warhawk
- Grumman Wildcat
- Messerschmitt Bf 109
- Nakajima Ki-43
- Supermarine Spitfire
[sửa] Trình tự thiết kế
[sửa] Danh sách liên quan
|
|
---|---|
Tổng thể | Thời gian biểu hàng không · Máy bay · Hãng chế tạo máy bay · Động cơ máy bay · Hãng chế tạo động cơ máy bay · Sân bay · Hãng hàng không |
Quân sự | Không quân · Vũ khí máy bay · Tên lửa · Phương tiện bay không người lái (UAV) · Máy bay thử nghiệm |
Biến cố và tai nạn |
Hàng không quân sự · Hàng không dân dụng · Hoạt động hàng không chung · Thiệt hại nhân mạng liên quan đến hàng không |
Kỷ lục | Kỷ lục tốc độ bay · Kỷ lục quãng đường bay · Kỷ lục bay cao · Kỷ lục thời gian bay · Máy bay sản xuất với số lượng lớn |