Đồng bằng sông Hồng
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Đồng bằng sông Hồng, còn gọi là Đồng bằng Bắc Bộ, là vùng đồng bằng châu thổ của sông Hồng, miền Bắc Việt Nam. Đồng bằng sông Hồng là một trong 3 tiểu vùng của Bắc Bộ Việt Nam (2 tiểu vùng kia là Vùng Đông Bắc và Vùng Tây Bắc).
Đây là vùng đất màu mỡ, được hình thành do sự bồi đắp phù sa của hệ thống sông Hồng và hệ thống sông Thái Bình, là các sông nhánh cận Bắc và cận Nam của sông Hồng và một hệ thống sông ngòi phức tạp chảy ra vịnh Bắc Bộ qua trên 10 cửa sông .
Vùng đất có điều kiện thích hợp cho phát triển nông nghiệp. Nó được nhiều nhà sử học coi là nơi hình thành và phát triển của dân tộc Việt, một nôi văn hóa quan trọng của người Việt.
Mục lục |
[sửa] Địa lý
Vùng đồng bằng sông Hồng nằm ngay cạnh phía Nam của đường bắc chí tuyến, giữa vĩ độ 22°00' và 21°30' Bắc và kinh độ 105°30' và 107°00' Đông. Nó có hình dáng điển hình của một vùng châu thổ, với đáy là đường bờ biển kéo dài 130 km từ trung tâm mỏ than và cảng Thành phố Hạ Long ở phía Bắc, đến điểm cực Nam của tỉnh Ninh Bình ở phía Nam. Đỉnh của tam giác này thay đổi theo thời gian cùng với sự mở rộng của nó và hiện tượng mực nước biển rút xuống. Trần Quốc Vượng (1998) cho rằng vào thời kỳ nhà nước Văn Lang, đỉnh của tam giác châu thổ sông Hồng ở gần thành phố Việt Trì ngày nay. Đến thời kỳ nhà nước Âu Lạc (thế kỷ 3 TCN), đỉnh của tam giác đã lui xuống vùng Đông Anh (Hà Nội). Hiện nay, đỉnh của tam giác này ở Hưng Yên. Nếu vẫn coi đỉnh tam giác là ở Việt Trì, thì diện tích tổng cộng của đồng bằng sông Hồng khoảng 16.644 km².
Khu trung tâm của vùng ĐBSH rất bằng phẳng, phần lớn nằm ở độ cao từ 0,4 m đến 12 m so với mực nước biển, với 56% có độ cao thấp hơn 2 m. Tuy nhiên cũng có những khu vực đất cao, dưới dạng cacxtơ đá vôi hình thành các đồi riêng biệt giống như các đỉnh núi nhọn và những dãy đồi núi dọc theo hai cánh tây-nam và đông-bắc của vùng.
Phần lớn vùng đất của đồng bằng sông Hồng được 2 loại đê bảo vệ: 3000 km đê ngăn lũ của hệ thống sông và 1500 km đê biển ngăn sóng lớn của các cơn bão ở vịnh Bắc Bộ.
Khí hậu ở đây là nhiệt đới và cận nhiệt đới. Gió mùa của vùng Đông Á có vai trò chủ đạo đối với vùng. Nhiệt độ không khí trung bình năm khoảng 22,5-23,5°C và lượng mưa trung bình năm 1400-2000 mm.
[sửa] Danh sách cửa của hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình
Hệ thống sông Hồng đổ ra Vịnh Bắc Bộ qua chín cửa sông gồm:
- Cửa Ba Lạt: cửa chính trên sông Hồng, ở bờ biển giáp gianh Nam Định và Thái Bình
- Cửa Lạch Giang (sông Ninh Cơ) ở tỉnh Nam Định
- Cửa Đáy (sông Đáy) ở tỉnh Ninh Bình
- Cửa Lân ở Tiền Hải (Thái Bình)
- Cửa Trà Lý (sông Trà Lý) ở tỉnh Thái Bình
- Cửa Diêm Điền (sông Diêm Điền hay sông Diêm Hộ) ở Thái Thụy (Thái Bình)
- Cửa Hà Lận ở tỉnh Nam Định
Hệ thống sông Thái Bình gồm các cửa:
- Cửa Thái Bình của sông Thái Bình, nằm giữa hai tỉnh Thái Bình và Hải Phòng;
- Cửa Văn Úc, trên sông Văn Úc, Hải Phòng;
- Cửa Lạch Tray, trên sông Lạch Tray, Hải Phòng;
- Cửa Cấm, trên sông Cấm, Hải Phòng;
- Cửa Nam Triệu, trên sông Bạch Đằng, nằm giữa hai tỉnh Quảng Ninh và Hải Phòng;
- Cửa sông Chanh, Quảng Ninh;
[sửa] Hành chính
Về mặt hành chính, có 85 huyện và 96 thị trấn nằm trong vùng đồng bằng sông Hồng, với tổng diện tích là 14.806 km². Chúng nằm trong 9 tỉnh hay thành phố cộng với một phần của 2 tỉnh khác.
Tên | Cấp đơn vị hành chính | Diện tích (km²) | Dân số (người) |
---|---|---|---|
Bắc Ninh | tỉnh | 807,6 | 987.400 |
Hà Nam | tỉnh | 849,50 | 811.126 |
Hà Nội | thành phố trực thuộc trung ương, thủ đô | 920,97 | 3.055.300 |
Hà Tây | tỉnh | 2.193 | 2.470.000 |
Hải Dương | tỉnh | 1.662 | 1.689.200 |
Hải Phòng | thành phố trực thuộc trung ương | 1.523 | 1.772.500 |
Hưng Yên | tỉnh | 923,09 | 1.116.000 |
Nam Định | tỉnh | 1.676 | 1.934.000 |
Ninh Bình | tỉnh | 1.400 | 900.000 |
Thái Bình | tỉnh | 1.542 | 1.827.000 |
Có hệ thống 3 cụm đô thị ở đồng bằng sông Hồng:
- Cụm Tây Bắc – Trung tâm là Hà Nội.
- Cụm phía Đông - Trung tâm là Hải Phòng.
- Cụm phía Nam- Trung tâm là Nam Định.
[sửa] Dân cư
Mật độ dân cư ở đồng bằng châu thổ sông Hồng cao nhất Việt Nam (1.179 người/km²). Tổng dân số của vùng là 17.649.700 người (2003)
[sửa] Chú thích
- ^ Trần Quốc Vượng (1998), Việt Nam, cái nhìn địa văn hóa.
- ^ Năm 1980, Vụ Nông-Lâm thuộc Ủy ban Kế hoạch Nhà nước đề xuất bảy vùng nông nghiệp trong đó có một vùng mang tên đồng bằng sông Hồng. Sau đó, Tổng cục Thống kê thường xuyên công bố số liệu thống kê theo cách phân vùng này, vô tình tạo nên một suy nghĩ không chính xác về giới hạn của vùng đồng bằng sông Hồng. Thực ra một phần của Hà Nội, Hà Tây, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Ninh Bình, Hải Dương, và Hà Nam là những vùng đồi núi, song vì cách phân vùng trên mà vẫn được xếp vào vùng đồng bằng sông Hồng, trong khi phần phía Nam của Quảng Ninh là bộ phận của đồng bằng sông Hồng lại không được đưa vào.
[sửa] Tham khảo
- Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bằng sông Hồng, tháng 6/1995.
[sửa] Xem thêm
Bài này còn sơ khai. Bạn có thể góp sức viết bổ sung cho bài được hoàn thiện hơn. Xem phần trợ giúp để biết thêm về cách sửa đổi bài. |