See also ebooksgratis.com: no banners, no cookies, totally FREE.

CLASSICISTRANIERI HOME PAGE - YOUTUBE CHANNEL
Privacy Policy Cookie Policy Terms and Conditions
Trận El Alamein – Wikipedia tiếng Việt

Trận El Alamein

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Trận chiến El Alamein thứ nhất
Một phần của Thế chiến thứ Hai, chiến trường Bắc Phi

17 tháng 7, 1942
Quân Anh dùng bao cát lập chiến hào tại El Alamein.
Thời gian 1 tháng 727 tháng 7, 1942
Địa điểm El Alamein, Ai Cập
Kết quả Bất phân thắng bại
Tham chiến
Cờ Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Đồng Minh (phần lớn là quân đội Anh) Cờ Đức Khối Trục
Chỉ huy
Cờ Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Claude Auchinleck
Cờ Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Eric Dorman Smith
Cờ Đức Erwin Rommel
Lực lượng
150000 lính trong 3 quân đoàn, 7 sư đoàn bộ binh and 3 sư đoàn thiết giáp, 1114 xe tăng, hơn 1000 súng pháo và hơn 1500 máy bay 96000 lính (56000 lính Ý) 8 sư đoàn bộ binh, 4 sư đoàn thiết giáp (2 Đức, 2 Ý) 585 xe tăng (hơn nửa là của Ý), khoảng dưới 500 máy bay.
Thương vong
13250 tử vong 15000-20000 tử vong hay bị thương
7000 bị bắt


El Alamein là một cứ điểm phía Bắc châu Phi. Trong thế chiến thứ Hai, quân Đồng Minh và quân khối Trục đánh nhau kịch liệt tại vùng đất này. Quân khối Trục tuy thắng thế trận thứ Nhất (1 - 27 tháng 7 1942) nhưng không đủ sức tiến quân xa hơn và hai bên rơi vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Trong trận thứ Hai (23 tháng 10 - 3 tháng 11 1942), quân Đồng Minh chiến thắng và bắt đầu cuộc đẩy lui quân đội Phát Xít ra khỏi Bắc Phi.

Mục lục

[sửa] Trận El Alamein thứ Nhất

Bản đồ chiến trường Bắc Phi 1941
Bản đồ chiến trường Bắc Phi 1941

[sửa] Quân Anh rút khỏi Gazala

Sau khi thua trận Gazala vào tháng 6 1942, quân đoàn 8 của Anh rút chạy về Mersa Matruh, cách biên giới Ai Cập khoảng 100 dặm . Ngày 25 tháng 6 tướng Claude Auchinleck thay thế tướng Neil Ritchie lên chỉ huy quân đoàn 8 và quyết định không đương đầu với Rommel. Ông rút lui xa hơn nữa, kéo quân theo hướng Đông dọc bờ biển Địa Trung Hải về gần El Alamein. Địa thế khu này có lợi thế phòng thủ vì phía Nam có những vũng cát sâu (gọi là vũng cát thấp Qattara); xe tăng của Rommel khó có thể vượt qua. Mặt Bắc thì có biển Địa Trung Hải. Chiến tuyến nhờ vậy mà tương đối ngắn và chỉ ở phía Tây.

[sửa] Trận chiến tại Mersa Matruh

Trong cuộc chuẩn bị lui về El Alamein, Auchinleck ra lệnh chuyển binh không thống nhất, tại Mersa Matruh và ngày 26 tháng 6 và tại Fuka ngày 27 tháng 6. Vì lệnh truyền ra chậm, các đội quân (X và XIII) bị xáo trộn - các chỉ huy không biết nên đánh (để phá địch quân) hay nên lui (để khỏi bị kẹt). Sư đoàn 2 quân đội Tân Tây Lan vì thế mà bị sư đoàn 21 thiết giáp Đức bao vây tại Minqar Qaim cho đến đêm 27 tháng 6 mới thoát được và chạy về El Alamein. Vì không có liên lạc để hệ thống hóa rút lui, cuộc rút lui của đội XIII lại làm hở sườn của đội quân X. Khi đội X thoát khỏi vòng vây thì bị tổn thất nặng nề. Một thánh phần của đội này, binh đoàn 29 bộ binh Ấn Độ bị quân Đức tiêu diệt hoàn toàn.

[sửa] Phòng thủ tại El Alamein

Auchinleck dựng hệ thống phòng thủ khá vững chắc. Hai đầu của chiến tuyến do sư đoàn 1 Nam Phi và sư đoàn 2 Tân Tây Lan canh phòng. Nối giữa hai đầu này là một loạt chiến hào và nhiều ổ súng. Tại trung tâm và phía sau của tuyến đường phòng thủ này là đồi Ruweisat Ridge, nơi bộ chỉ huy có thể kiểm soát và liên lạc hai đầu.

Ngày 30 tháng 6, khi quân Rommel kéo đến El Alamein thì bên Đồng Minh có binh đoàn 18 của sư đoàn 8 bộ binh Ấn Độ từ Iraq sang tiếp viện. Binh đoàn này có nhiệm vụ tăng cường đào chiến hào và hỗ trợ pháo binh cho khu Deir el Shein, 4 dặm về phía tây của Ruweisat Ridge. Nhưng đám lính tiếp viện này đã đến trễ mà lại bị thiếu dụng cụ đào hào và mìn, nên khu này dễ bị thiết giáp địch tấn công. Cũng trong lúc này, nhiều toán quân Đồng Minh khác còn đang rục rịch rút lui về từ phía Tây và thiếu chuẩn bị để chiến đấu.



[sửa] Trận El Alamein thứ Nhất

Ngày 30 tháng 6, Rommel khởi cuộc tấn công dọc theo đường bờ biển nhưng bị sư đoàn 1 Nam Phi đánh bật ra [1]. Lúc 9 giờ sáng ngày 1 tháng 7, quân thiết giáp Đức đánh vào Deir el Shein. Quân Ấn cố thủ khu này nhưng sau một ngày chiến đấu thì bị vỡ. Tuy nhiên, nhờ công sức cố thủ này mà Auchinleck có đủ thời gian tập hợp một đội hỗn hợp gồm bộ binh và pháo binh từ sư đoàn 10 Ấn Độ và cho phòng thủ phía Tây của đồi Ruweisat. Sáng ngày 2 tháng 7 quân Đức nhiều lần kéo đến đánh chiếm đồi Ruweisat nhưng đều bị đánh bật ra.[1]

Ngày 3 tháng 7, Auchinleck đem Sư đoàn Tân Tây Lan, Lữ đoàn 5 Ấn Độ và Lữ đoàn Cơ động 7 mở cuộc phản công từ đồn Qattara (quân Tân Tây Lan gọi là đồn Kaponga) đánh thốc vào sườn của quân Đức. Sau 3 ngày đánh giết, quân Anh tiến gần đến Deir el Shein. Quân Đức dưới chỉ huy của Rommel tuy mệt mỏi nhưng cố sức chống giữ và hai bên cầm cự, tiến thoái lưỡng nan trong thời gian dài.

Rommel lúc này đang gặp trở ngại vì tuyến đường tiếp vận quá dài, lại bị không quân đồng minh đánh phá liên tục. Bộ binh Anh cũng tấn công về phía tây gay tồn thất cho hậu quân của Đức [2]. Tiếp vận cho Rommel từ Ý sang cũng giảm nhiều (5.000 tấn và 400 xe tải - so với 34.000 tấn và 2000 xe tải vào tháng 5 trước đó) [3].

Bên kia, Quân đoàn 8 thì lại được tăng cường lực lượng nnhờ tuyến tiếp vận ngắn hơn. Súng phá tăng loại 6 cân mới chế tạo được dùng thay loại 2 cũ và yếu. Đợt xe tăng Sherman với súng 75 li cũng sang đến [4]. Ngày 4 tháng 7 sứ đoàn 9 quân Úc kéo đến phòng thủ sau căn cứ Alamein. Ngày 9 tháng 7 Lữ đoàn 5 bộ binh Ấn Độ đang suy yếu được Lữ đoàn 161 Ấn Độ đến tăng cường [5].

Ngày 10 tháng 7 Auchinleck mở cuộc tấn công Tel el Eisa, bắt được 89 lính Đức và 835 lính Ý và tạo khe hở trong đội ngũ quân phe Trục. Quân Ý phản công, cố gắng lấp chỗ hở, ban đầu giành được lợi thế, và bắt được 13 tù binh. Lực lượng Ý bị tổn thất nặng nề trong cuộc cầm cự này, nhưng tạo đủ thời gian để được các đội thiết giáp đến kéo đến tiếp ứng. [6][7]

On July 14 and July 22 Auchinleck attacked the Ruweisat Ridge in the centre again (the First and Second Battles of Ruweisat). The Axis position was held by Colonel Gherardo Vaiarini's 65th Regiment and Colonel Umberto Zanetti's 66th Regiment both from the "Trieste" Infantry Division. Neither battle was successful. In the second battle a mixed German-Italian combat team held off an attack by 23rd Armoured Brigade giving Rommel time to concentrate and counterattack with the Afrika Korps. The inexperienced British tankers came under furious anti-tank fire and turning to avoid it, found themselves in a minefield. 5th Panzer Regiment launched what one observer described "a real balaclava charge" and destroyed more than forty British tanks. The rest of the 21st Panzer then destroyed what was left of the brigade.[8] The resulting failure of armour to reach the infantry in time led to the loss of 700 men. More than 2,300 New Zealanders were killed, wounded, or captured in the two battles.[9][10]

It was during these battles that Vairini and Zanetti were mortally wounded and killed and, for their gallant actions decorated posthumously. A notable feature of the first battle was the result of the engagement between units of the 21st Panzer Division and Indian 5th Infantry Brigade which had recently had its 2-pounder anti-tank guns replaced with the new 6-pounder guns. These proved highly effective and knocked out 24 of the attacking tanks before they withdrew.[11]

In the meantime Colonel Angelozzi's 1st Battalion 85th Infantry Regiment of the "Sabratha" Division, after regrouping, had launched a fierce counterattack on the forces on Tel el Eisa on 14 July supported by Italian tanks and succeeded in piercing the defences, between the feature and the main Tel el Eisa Ridge.[12] The Australian troops were forced to withdraw from their forward positions, but their main defences remained intact.[13] Italian counter-attacks continued on 17 July when the 3rd Battalion 62nd Regiment of the "Trento" Division counterattacked with a column of tanks and succeeded in capturing 200 troops from the 2/32nd Battalion that had stormed the feature Trig 22 held by 100 men of the Italian 32nd Combat Sappers Battalion. Although the Australian Official History describes the battalion's opponents as "German",[14] the Australian historian Mark Johnston reports that German records indicate that the Italians were responsible.[15]

Auchinleck was determined to retain the initiative and another two attacks were launched on July 27. One in the north at Tel el Eisa was a moderate failure. The other at Miteiriya, however, sustained heavy losses as the minefields were not cleared and the infantry were left without armour support when faced with a German counter-attack. The Australian 2/28th Battalion lost 65 men dead and 490 captured, in an attack on a battalion of the "Trento" Division and reconnaissance group of the "Trieste" Division entrenched along Sanyet el Miteiriya.[16][17]

The Eighth Army was exhausted, and by July 31 Auchinleck ordered an end to offensive operations and the strengthening of the defences to meet a major counter-offensive.

[sửa] Kết quả

The battle was a stalemate, but the Axis advance on Alexandria (and then Cairo) was halted. Eighth Army had sustained over 13,000 casualties in July (including 4,000 in the New Zealand Division and 3,000 in Indian 5th Infantry Division) but had taken 7,000 prisoners and inflicted heavy damage on the Axis forces in terms of men and armour.[1]

In early August Winston Churchill and General Alan Brooke, the British Chief of the Imperial General Staff visited Cairo on their way to meet Joseph Stalin in Moscow. They decided to replace Auchinleck, appointing XIII Corps commander Lieutenant-General William Gott to the Eighth Army command and General Sir Harold Alexander as C-in-C Middle East Command. Persia and Iraq were to be split from Middle East Command as a separate Persia and Iraq Command and Auchinleck offered the post of C-in-C (which he refused).[13] But Gott was killed on the way to take up his command when his air transport was caught by a Messerschmitt and Gott was shot through the heart.[14] Lieutenant-General Bernard Montgomery was appointed in his place.[1]

A second attempt by Rommel to bypass or break the Commonwealth position was repulsed in the Battle of Alam Halfa in August, and in October the Eighth Army decisively defeated the Axis forces in the Second Battle of El Alamein.

[sửa] Trận El Alamein thứ Hai

Trận chiến El Alamein thứ nhì
Một phần của Thế chiến thứ Hai

24 tháng 10, 1942
Hình chiến binh Úc trang tư thế tấn công
do Len Chetwyn dàn dựng và chụp.
Thời gian 23 tháng 10 - 3 tháng 11, 1942
Địa điểm El Alamein, Ai Cập
Kết quả Quân Đồng Minh thắng trận
Tham chiến
Đồng Minh:
Cờ Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Anh Quốc
Cờ Úc Úc
Cờ New Zealand Tân Tây Lan
Cờ Cộng hòa Nam Phi Nam Phi
Cờ Ấn Độ Ấn Độ
Cờ Pháp Pháp
Cờ Hy Lạp Hy lạp
Khối Trục:
Cờ Đức Đức Quốc Xã
Cờ Ý Phát xít Ý
Chỉ huy
Cờ Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Harold Alexander
Cờ Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Bernard Montgomery
Cờ Đức Erwin Rommel
Cờ Đức Georg Stumme
Cờ Ý Ettore Bastico
Lực lượng
220000 lính
1100 xe tăng[18]
750 máy bay chiến đấu (530 serviceable)
116000 lính[18]
559 tanks[19]
275 Đức (150) & 400 Ý (200)
Thương vong
2350 tử vong [20]
8950 bị thương[20]
2260 mất tích[20]
500 xe tăng bị hủy[19]
97 máy bay chiến đấu [20]
111 súng [20]
German: 1149 tử vong [21]
3886 bị thương[21]
8050 bị bắt [21]
64 máy bay [20]
Italian: 971 tử vong [21]
933 bị thương[21]
22071 bị bắt [20]
20 aircraft [20]

Vào đầu tháng 7 năm 1942, sau khi chiến thắng tại Gazala, tập đoàn thiết giáp Châu Phi bao gồm quân đoàn Châu Phi của Đức và bộ binh Đức, Ý và các đơn vị cơ giới dưới sự chỉ huy của tướng Erwin Rommel tiến sâu vào đất Ai Cập, đe dọa dường vận tải và sức sống còn của quân đội Anh ở kênh đào Suez. Tướng Claude Auchinleck chỉ huy quân đoàn 8 của Anh phải rút lui về 50 dặm bên ngoài thành phố Alexandria. Vị trí của khu này dễ phòng thủ vì có sa mạc che chở và các chiến đoàn xe tăng của Rommel không thể vượt qua những hố cát sâu rộng. Quân đoàn 8 nhiều lần ráng phản công nhưng đều thất bại vì Rommel kiên trì giữ vững tư thế để chờ tiếp viện. Đến cuối tháng 7 thì quân Anh phải ngưng phản công để chờ tăng cường lực lượng. Qua tháng 8, thủ tướng Anh Winston Churchill sang Cairo họp cùng tham mưu trưởng là Alan Brooke quyết định tìm người thay Auchinleck chỉ huy quân đoàn 8. Tướng William Gott được chọn nhưng ông ta chết khi máy bay của ông bị quân Đức bắn rơi. Tướng Bernard Montgomery do đó được cử làm chỉ huy trưởng quân đoàn 8, cùng với tướng tham mưu là Harold Alexander.

Trong lúc này quân Đức cũng gặp nhiều vấn đề vì công tác vận tải rộng và xa quá mức hỗ trợ từ hậu phương. Đã thế lại có tin tình báo cho biết lực lượng tiếp viện hùng hậu của quân Đồng Minh đang kéo đến. Trước tình hình này, Rommel quyết định tấn công quân Đồng Minh mặc dầu quân đội của ông chưa chuẩn bị xong. Vào ngày 30 tháng 8 năm 1942 Rommel mở đầu cuộc tấn công gồm hai mũi dùi thiết giáp từ Alam Halfa. Tuy cuộc tấn công này thất bại, Rommel tìm hiểu được nhiều về tình hình chiến lược, và trong khi đang trong thế chưa thua, ông bắt đầu củng cố lực lượng và tăng cường công tác gài mìn và kéo dây kẽm gai, để phòng khi quân của mình lọt vào tư thế phải rút lui.

Về phía quân Anh, hai tướng Alexander và Montgomery cũng nhận thức được khả năng kháng cự của Rommel nên họ tiếp tục chịu dậm chân tại chỗ trong nhiều tuần lễ để củng cố lực lượng. Vấn đề chính không chỉ là thắng một trận, mà còn phải còn đủ sức đánh dấn tới để đẩy lui quân khối Trục ra khỏi Phi châu. Trong những trận đụng độ tại Bắc Phi trước đó, bên thắng chưa bao giờ có khả năng tiến tới và đánh tan quân địch; và bên thua lúc nào cũng có thể rút lui để hồi phục đánh tiếp.

Sau 6 tuần lễ củng cố lực lượng, quân đoàn 8 của Anh Quốc đã chuẩn bị xong và sẵn sàng tấn công. Quân của Montgomery gồm 200000 lính, 1000 xe tăng, tấn công quân của Rommel gồm 100000 lính và 500 xe tăng.



[sửa] Kế hoạch của quân Đồng Minh

Với chiến dịch Lightfoot,Montgomery đã hy vọng cắt đứt hai hành lang qua bãi mìn của quân phát xít ở phía Bắc.Thiết giáp sẽ vượt qua đó và đánh bại thiết giáp Đức.Cuộc tấn công nghi binh ở phía Nam sẽ thu hút các lực lượng còn lại của quân Phát xít đang tiến về phía Bắc.Montgomery mong đợi một trận đánh trong 20 ngày qua 3 giai đoạn.




[sửa] Chú thích

  1. ^ a b Mackenzie (1951), p. 581
  2. ^ Clifford (1943), p.285
  3. ^ Scoullar (1955), p. 79
  4. ^ Clifford (1943), p.294
  5. ^ Mackenzie (1951), p. 583
  6. ^ Maughan (1966), Ch. 12
  7. ^ "I Bersaglieri in Africa Settentrionale" (bằng Italian) (2003). Được truy cập ngày 2008-01-06.
  8. ^ Mitcham (1982), p. 122
  9. ^ NgaToa, the kiwi veterans' website: Ruweisat Ridge 14-15 July 1941 Accessed 13 January, 2007
  10. ^ NgaToa, the kiwi veterans' website: EL Mreir 22 July 1941 Accessed 13 January, 2007
  11. ^ Mackenzie (1951), p. 587
  12. ^ Grilli, Arnaldo. "Carabinieri web site: I Carabinieri nel Novecento italiano, 1942: l'anno decisivo" (bằng Italian). Ministero della Difesa, Repubblica Italiana. Được truy cập ngày 2007-01-13.
  13. ^ (1942) “War in the Western Desert (Chapter 8)”, Soldiering On: The Australian Army at Home and Overseas 1942., Canberra ACT: Australian War Memorial. Địa chỉ URL được truy nhập ngày 2007-01-13.
  14. ^ Australian War Memorial: 2/32 Battalion, Accessed 27 December, 2007
  15. ^ Johnston (2000), p. 13
  16. ^ Stanley, Dr. Peter (28 July, 2002). "Remembering 1942:Ruin Ridge, 26–27 July 1942". Transcript of speech, Canberra: Australian War Memorial. Truy cập ngày 2007-01-13. 
  17. ^ Caccia-Dominioni (1966), pp. 87-88
  18. ^ a b Buffetaut, Yves(1995);Operation Supercharge-La seconde bataille d'El Alamein; Histoire Et Collections
  19. ^ a b Carver, Michael (1962). El Alamein, Wordsworth Editions. ISBN 1-84022-220-4.
  20. ^ a b c d e f g h Major General I.S.O. Playfair. The Mediterranean and Middle East Volume IV The destruction of the Axis forces in Africa pg. 78
  21. ^ a b c d e Niall Barr. Pendulum of War: The three battle of El Alamein pg. 404


aa - ab - af - ak - als - am - an - ang - ar - arc - as - ast - av - ay - az - ba - bar - bat_smg - bcl - be - be_x_old - bg - bh - bi - bm - bn - bo - bpy - br - bs - bug - bxr - ca - cbk_zam - cdo - ce - ceb - ch - cho - chr - chy - co - cr - crh - cs - csb - cu - cv - cy - da - de - diq - dsb - dv - dz - ee - el - eml - en - eo - es - et - eu - ext - fa - ff - fi - fiu_vro - fj - fo - fr - frp - fur - fy - ga - gan - gd - gl - glk - gn - got - gu - gv - ha - hak - haw - he - hi - hif - ho - hr - hsb - ht - hu - hy - hz - ia - id - ie - ig - ii - ik - ilo - io - is - it - iu - ja - jbo - jv - ka - kaa - kab - kg - ki - kj - kk - kl - km - kn - ko - kr - ks - ksh - ku - kv - kw - ky - la - lad - lb - lbe - lg - li - lij - lmo - ln - lo - lt - lv - map_bms - mdf - mg - mh - mi - mk - ml - mn - mo - mr - mt - mus - my - myv - mzn - na - nah - nap - nds - nds_nl - ne - new - ng - nl - nn - no - nov - nrm - nv - ny - oc - om - or - os - pa - pag - pam - pap - pdc - pi - pih - pl - pms - ps - pt - qu - quality - rm - rmy - rn - ro - roa_rup - roa_tara - ru - rw - sa - sah - sc - scn - sco - sd - se - sg - sh - si - simple - sk - sl - sm - sn - so - sr - srn - ss - st - stq - su - sv - sw - szl - ta - te - tet - tg - th - ti - tk - tl - tlh - tn - to - tpi - tr - ts - tt - tum - tw - ty - udm - ug - uk - ur - uz - ve - vec - vi - vls - vo - wa - war - wo - wuu - xal - xh - yi - yo - za - zea - zh - zh_classical - zh_min_nan - zh_yue - zu -