Bòn bon
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Lansium domesticum | ||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Bòn bon Philippin
|
||||||||||||||
Phân loại khoa học | ||||||||||||||
|
||||||||||||||
Tên hai phần | ||||||||||||||
Lansium domesticum Corrêa |
Bòn bon, còn gọi là lòn bon, danh pháp khoa học: Lansium domesticum là loài cây ăn trái nhiệt đới thuộc họ Xoan.
Bản địa bòn bon là bán đảo Mã Lai nhưng nay cây này phổ biến trồng khắp vùng Đông Nam Á và Nam Á.
Cây bòn bon là dạng cây trung bình, cao khoảng 10-15 m.
Hoa bòn bon lưỡng tính, màu vàng nhạt mọc thành chùm (inflorescence) hay dây (raceme).
Cây kết trái hình tròn, đường kính khoảng 5 cm, vỏ dẻo. Cơm bòn bon màu trắng đục, có khi gần như trong suốt, chia thành 5-6 múi. Mỗi múi có một hột. Vị bòn bon hơi chua, khi chín thì ngọt hơn. Hột bòn bon rất đắng, khó tách khỏi cơm nên người ăn có khi nuốt luôn cả múi để tránh nhằn hột. Bòn bon chín vào mùa hè từ tháng 5 đến tháng 10.
[sửa] Bòn bon tại Việt Nam
Trái bòn bon còn có hai tên quý phái hơn do vua nhà Nguyễn ban: trái nam trân, tức "(trái) quý ở phương nam" và trái trung quân, tương truyền vì trong khi trốn tránh quân Tây Sơn, nhờ có trái bòn bon ăn cứu đói mà nhóm quân phò chúa mới cầm cự được. Ưu ái này còn được biểu hiện qua việc chạm hình bòn bon vào Cửu Đỉnh ở Huế. Trước năm 1954 triều đình có đặt quan trông coi việc thu hoạch bòn bon ở thượng nguồn sông Ô Gia, tỉnh Quảng Nam để tiến kinh. Ba huyện Đại Lộc, Quế Sơn và Tiên Phước nay vẫn nổi tiếng là xuất xứ bòn bon ngon và ngọt.