Vua Thuấn
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Lịch sử Trung Quốc | ||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
CỔ ĐẠI | ||||||||||
Tam Hoàng Ngũ Đế | ||||||||||
Nhà Hạ 2205–1767 TCN | ||||||||||
Nhà Thương 1766–1122 TCN | ||||||||||
Nhà Chu 1122–256 TCN | ||||||||||
Nhà Tây Chu | ||||||||||
Nhà Đông Chu | ||||||||||
Xuân Thu | ||||||||||
Chiến Quốc | ||||||||||
ĐẾ QUỐC | ||||||||||
Nhà Tần 221 TCN –206 TCN | ||||||||||
Nhà Hán 206 TCN–220 CN | ||||||||||
Nhà Tây Hán | ||||||||||
Nhà Tân | ||||||||||
Nhà Đông Hán | ||||||||||
Tam Quốc 220–280 | ||||||||||
Ngụy, Thục & Ngô | ||||||||||
Nhà Tấn 265–420 | ||||||||||
Nhà Tây Tấn | ||||||||||
Nhà Đông Tấn | Ngũ Hồ thập lục quốc 304–439 |
|||||||||
Nam Bắc Triều 420–589 | ||||||||||
Nhà Tùy 581–619 | ||||||||||
Nhà Đường 618–907 | ||||||||||
(Nhà Vũ Chu 690–705) | ||||||||||
Ngũ Đại Thập Quốc 907–960 |
Nhà Liêu 907–1125 | |||||||||
Nhà Tống 960–1279 | ||||||||||
Nhà Bắc Tống | Nhà Tây Hạ | |||||||||
Nhà Nam Tống | Nhà Kim | |||||||||
Nhà Nguyên 1271–1368 | ||||||||||
Nhà Minh 1368–1644 | ||||||||||
Nhà Thanh 1644–1911 | ||||||||||
HIỆN ĐẠI | ||||||||||
Trung Hoa Dân Quốc 1912–1949 | ||||||||||
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa 1949–ngày nay |
Trung Hoa Dân Quốc |
|||||||||
Triều đại Trung Quốc Lịch sử quân sự Trung Quốc |
||||||||||
Thuấn (舜) là một vị vua huyền thoại thời Trung Quốc cổ đại, nằm trong Tam Hoàng Ngũ Đế. Tên khi sinh Diêu Trọng Hoá (姚重華). Ông cũng được gọi là Hữu Ngu Thị (有虞氏). Ông được Vua Nghiêu đưa lên ngôi khi 53 tuổi và chết khi 100 tuổi, sau khi trao lại ngôi báu cho Hạ Vũ. Ông đặt thủ đô vương quốc tại Bồ Phản (蒲阪), Sơn Tây hiện nay).
Ông cũng được gọi là Đại Thuấn (大舜) hay Ngu Thuấn (虞舜).
[sửa] Vua Thuấn trong văn học Việt Nam
Trong văn học Việt Nam, thời Nghiêu, Thuấn được dùng làm điển cố miêu tả thời thái bình, (ngoài) đường không lượm của rơi, (trong) nhà khỏi lo đóng cửa.
Trong vở kịch thơ "Kiều Loan", Hoàng Cầm dùng hai chữ "Nghiêu Thuấn" để chỉ cách cai trị nhân từ và công bằng. Khi quan Thị lang muốn trừng trị một người dân vì có nói lời chỉ trích triều đình, viên quan Tham tri can:
- Xin đại nhân chớ vội vàng lên án
- Cửa miệng dân gian không thiếu những điều
- Ca tụng Tây Sơn, oán trách đương triều
- Dân oán hận phải tìm ra gốc ngọn
- Đây là Kiệt Trụ hay đây là Nghiêu Thuấn?
- Chúa thượng nhân từ sao oán hận không nguôi?
Điển cố này cũng ảnh hưởng khía cạnh khác của đời sống người Việt Nam, kể cả tôn giáo. Bài Kệ U Minh Chung của đạo Cao Đài có câu:
- Nam mẫu Đông giao cu triêm Nghiêu Thuấn chi nhựt.
Dịch nghĩa: Đất đai trong nước đều thấm nhuần thời thái bình an lạc.
Một điển cố khác liên quan đến vua Thuấn là sông Tương.
Theo truyền thuyết, vua Thuấn đi tuần thú đất Thương Ngô ở miền sông Tương không may bị bệnh chết. Hai người vợ là Nga Hoàng và Nữ Anh (con vua Nghiêu) đi tìm vua đến bên sông Tương, ngồi bên bờ sông khóc lóc thảm thiết rồi trầm mình tự tử. Do đó, giọt Tương hay mạch Tương thành điển cố chỉ giọt nước mắt, nhất là nếu khóc vì tình.
Trong truyện Kiều có câu:
- Chưa xong điều nghĩ đã dào mạch Tương
(Kiều khóc)
Điển cố này cũng dùng cho phái nam, như trong câu sau, cũng trích truyện Kiều:
- Giọt châu lã chã khôn cầm
- Cúi đầu chàng những gạt thầm giọt Tương!
(Thúc Sinh khóc)
Từ biểu tượng "khóc vì tình", điển này có khi nới rộng ra để nói về việc buồn (dù có thể không khóc) vì tình, như câu sau trong Bích câu kỳ ngộ:
- Ỏi tai những tiếng đoạn trường
- Lửa tình dễ nguội sóng Tương khôn hàn
(Tú Uyên tương tư)
[sửa] Xem thêm
Thần thoại Trung Quốc
[sửa] Liên kết ngoài
Tiền nhiệm: Đế Nghiêu |
Tam Hoàng Ngũ Đế 2233 TCN - 2184 TCN |
Kế nhiệm: Đại Vũ |
Bài này còn sơ khai. Bạn có thể góp sức viết bổ sung cho bài được hoàn thiện hơn. Xem phần trợ giúp để biết thêm về cách sửa đổi bài. |