Under My Skin (Avril Lavigne)
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
- Về các nghĩa khác cùng tên Under My Skin, xem tại bài định hướng Under My Skin
Under My Skin | |||||
---|---|---|---|---|---|
Album của Avril Lavigne | |||||
Phát hành | 25 tháng 5 năm 2004 | ||||
Thu âm | 2003–2004 | ||||
Loại nhạc | Alternative Rock/ Post-Grunge/ Pop Rock | ||||
Thời lượng | 43:34 | ||||
Hãng đĩa | Arista | ||||
Đánh giá chuyên môn | |||||
Thứ tự album đã phát hành của Avril Lavigne | |||||
|
|||||
Đĩa đơn từ Under My Skin | |||||
|
Hai năm sau thành công của album Let Go, ngày 25 tháng 5 năm 2004 Avril Lavigne đã phát hành album thứ hai với tựa đề: Under My Skin. Với Under My Skin, Avril đã thực sự rock hóa trong phong cách âm nhạc của mình. Ngay khi mới phát hành, Under My Skin đã chiếm giữ vị trí số 1 trên Billboard Hot 200 Album của Mĩ với 381.000 bản bán được ngay trong tuần đầu tiên, và đạt được vị trí quán quân trên 13 bảng xếp hạng khác như: Canada, Anh, Nhật Bản, Úc... Tính đến tháng 11 năm 2007, album này đã tiêu thụ được hơn 10 triệu bản trên toàn thế giới.
[sửa] Giới thiệu
Avril viết đa số các bài hát trong Under My Skin, cùng với ca sĩ nguời Canada Chantal Kreviazuk. Cô cũng đồng sáng tác track "Nobody's Home" với Ben Moody, cựu thành viên của Evanescence, và những bài còn lại với tay guitar chính truớc đó của cô, Evan Taubenfeld. Avril sử dụng 3 nguời sản xuất cho Under My Skin: Butch Walker của Marvelous 3, Raine Maida của Our Lady Peace (đồng thời là chồng của Kreviazuk), và Don Gilmore, nguời đã từng sản xuất nhạc cho Good Charlotte và Linkin Park.
Under My Skin đuợc phát hành vào ngày 25 tháng 5, 2004 và tiến thẳng vào vị trí đầu bảng nhiều nơi trên thế giới, đáng chú ý là ở Anh, Mỹ, Canada, và Úc, cùng với Billboard Internet charts. Single đầu tay, "Don't Tell Me", đã đuợc phát hành sớm vào tháng 4, 2004, và đã đạt #1 ở Argentina, top 5 ở Anh và Canada, và top 10 ở Úc, Brazil, và bảng xếp hạng Châu Âu.
Single thứ 2, "My Happy Ending", leo đến #9 ở Billboard Hot 100, trở thành hit lớn thứ 3 của cô cho đến hiện nay. Single thứ 3, "Nobody's Home", chỉ có thể tiến đến #41 của Billboard Hot 100, tuy nhiên do sự chấp nhận của fans và thính giả nói chung, nó có thể đuợc coi là 1 hit. Single thứ 4 của Under My Skin, "He Wasn't", đạt quán quân tại Canada, và bài hát trở thành #1 thứ 8 của cô tại đây kể từ single "Complicated". Tuy nhiên, single này lại rất yếu ở Anh khi nó chỉ đạt đến #23. Bài hát không đuợc phát hành tại Mỹ.
[sửa] Các ca khúc trong album
- "Take Me Away" (Lavigne, Taubenfeld) – 2:57
- "Together" (Lavigne, Kreviazuk) – 3:14
- "Don't Tell Me" (Lavigne, Taubenfeld) – 3:21
- "He Wasn't" (Lavigne, Kreviazuk) – 3:00
- "How Does It Feel" (Lavigne, Kreviazuk) – 3:44
- "My Happy Ending" (Lavigne, Walker) – 4:02
- "Nobody's Home" (Lavigne, Moody) – 3:32
- "Forgotten" (Lavigne, Kreviazuk) – 3:17
- "Who Knows" (Lavigne, Kreviazuk) – 3:30
- "Fall to Pieces" (Lavigne, Maida) – 3:28
- "Freak Out" (Lavigne, Taubenfeld, Brann) – 3:13
- "Slipped Away" (Lavigne, Kreviazuk) – 3:34
[sửa] Số lượng đĩa đã tiêu thụ
Chart | Certification | Sales |
---|---|---|
United States | 3x Platinum | 3,000,000+ |
Japan | Million | 1,000,000+ |
Canada | 5x Platinum | 500,000+ |
United Kingdom | 1x Platinum | 510,000+ |
France | Platinum | 300,000+ |
Brazil | 2xPlatinum | 250,000+ |
Mexico | Platinum | 100,000+ |
Australia | Platinum | 90,000+ |
New Zealand | Platinum | 15,000+ |
United World Chart [1] | 5x Platinum | 10,000,000+ |