See also ebooksgratis.com: no banners, no cookies, totally FREE.

CLASSICISTRANIERI HOME PAGE - YOUTUBE CHANNEL
Privacy Policy Cookie Policy Terms and Conditions
SR-71 Blackbird – Wikipedia tiếng Việt

SR-71 Blackbird

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

SR-71 "Blackbird"
Kiểu Máy bay trinh sát chiến lược
Hãng sản xuất Lockheed
Chuyến bay đầu tiên 22 tháng 12 năm 1964
Được giới thiệu 1966
Hãng sử dụng chính Không quân Hoa Kỳ
NASA
Số lượng được sản xuất 32
Được phát triển từ Lockheed A-12


Chiếc Lockheed SR-71 là một kiểu máy bay trinh sát chiến lược tiên tiến tầm xa, đạt được tốc độ Mach 3, được phát triển từ các kiểu máy bay Lockheed YF-12A và A-12 bởi nhóm Skunk Works của hãng Lockheed. Chiếc SR-71 được gọi một cách không chính thức là Blackbird, và được các đội bay gọi tên lóng là Habu ("snake"). Clarence "Kelly" Johnson là người chịu trách nhiệm về nhiều khái niệm tiên tiến trong thiết kế, và chiếc SR-71 là một trong những máy bay đầu tiên được tạo dáng để giảm thiểu mặt cắt radar, cho dù tín hiệu radar của nó vẫn có thể phát hiện được bởi các hệ thống radar hiện đại, không giống như những kiểu máy bay "tàng hình" sau này. Ưu thế để tự vệ của chiếc máy bay này là tốc độ và trần bay cao; khi phát hiện thấy tên lửa đất-đối-không được phóng ra hướng về phía mình, cách thoát ra đơn giản chỉ cần tăng tốc. Kiểu máy bay SR-71 đã phục vụ từ năm 1964 đến năm 1998, với 12 trong tổng số 32 máy bay chế tạo bị mất trong các tai nạn khi hoạt động, cho dù không có chiếc nào bị mất do các hoạt động của đối phương.[1]

Mục lục

[sửa] Thiết kế và phát triển

[sửa] Những chiếc tiền thân

Chiếc A-12 OXCART, được thiết kế dành cho Cục tình báo trung ương (CIA) bởi Kelly Johnson trong nhóm "Lockheed Skunk Works", là tiền thân của chiếc SR-71. Hãng Lockheed đã dùng cái tên "Archangel" để chỉ thiết kế này, nhưng nhiều tài liệu đã sử dụng cái tên "Article" vốn được Johnson ưa chuộng dành cho kiểu máy bay này. Khi công việc thiết kế tiến triển, tên gọi nội bộ trong hãng Lockheed đã phát triển từ A-1 đến A-12 khi cấu hình được thay đổi, như là các thay đổi trong thiết kế để làm giảm mặt cắt radar.

Chuyến bay đầu tiên, bởi một chiếc A-12 được biết dưới tên gọi "Article 121", diễn ra tại Groom Lake, Nevada, vào ngày 25 tháng 4 năm 1962, vốn được trang bị loại động cơ Pratt & Whitney J75 công suất kém hơn do việc phát triển kiểu động cơ dự định Pratt & Whitney J58 bị kéo dài. Kiểu động cơ J58 được trang bị lại cho nó khi đã sẵn sàng, và nó trở thành động cơ tiêu chuẩn cho mọi phiên bản máy bay sau đó trong loạt (A-12, YF-12, M-21) cũng như là kiểu máy bay tiếp nối SR-71.

Có 18 chiếc trong họ máy bay A-12 được chế tạo. Một chiếc là máy bay huấn luyện phi công với buồng lái thứ hai nhô cao dành cho phi công hướng dẫn; và 12 chiếc là phiên bản trinh sát A-12 được các phi công của CIA sử dụng hoạt động. Ba chiếc là phiên bản nguyên mẫu YF-12A của phiên bản tiêm kích đánh chặn được dự định F-12B; và hai chiếc phiên bản M-21. Phiên bản trinh sát của Không quân, vốn ban đầu được đặt tên là R-12,[2] lớn hơn một chút.

Trong chiến dịch vận động tranh cử Tổng thống năm 1964, Thượng nghị sĩ Barry Goldwater liên tục phê phán Tổng thống Lyndon B. Johnson và nội các của ông vì đã để bị tụt hậu phía sau Liên Xô trong việc nghiên cứu và phát triển các hệ thống vũ khí mới. Johnson đã quyết định đáp trả các phê phán này bằng cách công bố các thông tin mà cho đến lúc ấy vẫn còn được giữ tuyệt mật về chương trình máy bay A-12, và sau này là sự hiện hữu của phiên bản trinh sát.

[sửa] Tên gọi

Không quân Hoa Kỳ đã dự định đổi tên chiếc máy bay A-12 thành B-71; một kiểu nối tiếp theo chiếc B-70 Valkyrie. Chiếc B-71 sẽ có khả năng mang vũ khí nguyên tử là ba kiểu tên lửa SRAM (Short-Range Attack Missiles: tên lửa tấn công tầm ngắn) thế hệ đầu tiên. Tên gọi dự định tiếp theo là RS-71 (Reconnaissance-Strike: Trinh sát-tấn công) khi khả năng tấn công là một tùy chọn thêm. Tuy nhiên, Tổng tham mưu trưởng Không quân Hoa Kỳ lúc đó là Curtis LeMay đã ưa thích tên gọi SR (Strategic Reconnaissance: Trinh sát chiến lược) và mong muốn đổi tên RS-71 trở thành SR-71. Trước khi chiếc Blackbird được Tổng thống Johnson công bố vào ngày 29 tháng 2 năm 1964, LeMay đã vận động để thay đổi bài nói của Johnson đọc ra tên SR-71 thay vì RS-71. Bản viết của bài nói được phân phát cho giới báo chí vào lúc đó vẫn được in là RS-71, nên đã tạo ra một truyền thuyết cho rằng tổng thống đã đọc nhầm tên chiếc máy bay.[3][4]

Việc công khai chương trình trước công luận và việc đổi tên chiếc máy bay đã gây sốc cho mọi người trong nhóm Skunk Works và nhóm nhân viên Không quân tham gia vào chương trình này. Tất cả các tài liệu bảo trì, cẩm nang bay dành cho đội bay (nguồn tư liệu của Paul Crickmoore), hình chiếu huấn luyện và mọi tư liệu đều được mang tên "R-12"; trong khi bản Chứng nhận Hoàn tất do nhóm Skunkwork cấp cho các đội bay và chỉ huy phi đoàn của họ vào ngày 18 tháng 6 năm 1965 cũng mang tên "R-12". Sau bài phát biểu của Johnson, việc đổi tên được tiến hành do một mệnh lệnh của Tổng tư lệnh, và việc in lại các tài liệu được thực hiện ngay lập tức, bao gồm 29.000 trang in, để được đổi tên thành "SR-71".

[sửa] Chi tiết thiết kế

Các thiết bị bay của chiếc SR-71 Blackbird
Các thiết bị bay của chiếc SR-71 Blackbird

Khung máy bay được cấu tạo từ titanium vốn được mua từ Liên Xô trong giai đoạn cao trào của thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Lockheed dùng mọi cách che dấu có thể được nhằm ngăn cản chính quyền Xô Viết biết được số kim loại titanium này được dùng vào việc gì. Nhằm giúp kiểm soát được chi phí, họ đã sử dụng một hợp kim của titanium chế tạo khá dễ dàng vốn mềm đi ở nhiệt độ thấp. Chiếc máy bay được hoàn tất bằng một màu xanh dương đậm (gần như đen) để giúp gia tăng việc thải nhiệt từ bên trong (vì nhiên liệu được sử dụng như là chất thải nhiệt cho các hệ thống làm mát các thiết bị điện tử) và cũng nhằm mục đích ngụy trang trên bầu trời.

Chiếc máy bay được thiết kế để tối thiểu hóa mặt cắt radar của nó, một nỗ lực ban đầu trong thiết kế tàng hình. Tuy nhiên, khi thiết kế người ta đã không chú ý đến những hạt cực nóng trong khí thải thoát ra vốn phản xạ rất mạnh tính hiệu radar. Điều khôi hài là, chiếc SR-71 là một trong những mục tiêu rõ ràng nhất hiện trên màn hình của những radar tầm xa của FAA (Federal Aviation Administration: Liên đoàn Hàng không Dân dụng), vốn có khả năng theo dõi những chiếc máy bay ở khoảng cách vài trăm dặm.

Các sọc đỏ được nhìn thấy trên một số chiếc SR-71 nhằm mục đích ngăn các nhân viên bảo trì không làm tổn hại bề mặt chiếc máy bay. Những bề mặt uốn cong gần phía giữa thân khá mỏng và mong manh. Nó không được chống đỡ bên dưới ngoại trừ các sườn cấu trúc cặt cách nhau một khoảng xa.

[sửa] Thân máy bay

Nhằm cho phép dãn nở ở nhiệt độ hoạt động khá cao, các tấm cấu trúc thân được sản xuất chỉ để gắn kết một cách lỏng lẽo khi ở trên mặt đất. Cấu trúc và kích thước vừa vặn chỉ đạt được khi chiếc máy bay được nóng lên do ma sát không khí ở tốc độ cao, làm cho khung máy bay dãn nở ra thêm nhiều inch. Vì lý do này, và cũng vì thiếu sót một hệ thống làm kín nhiên liệu có thể chịu đựng được nhiệt độ cực cao, chiếc máy bay thường để lại những vệt nhiên liệu phản lực JP-7 trên đường băng trước khi cất cánh. Chiếc máy bay sẽ nhanh chóng bay một quãng ngắn để làm ấm khung máy bay, rồi được tiếp thêm nhiên liệu trước khi bắt đầu thực hiện nhiệm vụ. Việc làm mát được thực hiện bằng cách lưu chuyển nhiên liệu bên dưới các bề mặt làm bằng titinium ở phần phía trước (cằm) của cánh. Khi hạ cánh sau một phi vụ nhiệt độ của nóc buồng lái lên đến 300°C, nóng đến mức không thể chạm đến. Vật liệu amiăng không sợi với tính năng chịu nhiệt tốt được sử dụng tại các vùng có nhiệt độ cao, đây cũng là loại vật liệu được sử dụng trong phanh của ô tô.[5]

[sửa] Kỹ thuật tàng hình

Một số đặc tính trên chiếc SR-71 đã được thiết kế để nhằm làm giảm tín hiệu radar. Những nghiên cứu ban đầu về kỹ thuật tàng hình đối với radar dường như cho thấy rằng một hình dạng có các cạnh phẳng, thon nhọn sẽ phản xạ hầu hết sóng radar ra khỏi nguồn gốc phát xạ. Nhằm mục đích này, các kỹ sư radar đã đề nghị bổ sung cấu trúc cằm vào thiết kế và đưa các bề mặt kiểm soát bay ngang vào phía trong. Chiếc máy bay cũng sử dụng những vật liệu hấp thu radar đặc biệt vốn được tích hợp vào những bộ phận hình răng cưa trên bề mặt máy bay, cũng như là các chất phụ gia nhiên liệu dựa trên cesium để làm giảm độ sáng khí thải trên màn hình radar.

Hiệu quả chung của những thiết kế này là một vấn đề còn có nhiều tranh cãi. Nhóm của Ben Rich đã chứng minh được là tín hiệu phản xạ radar trong thực tế đã giảm, nhưng Kelly Johnson sau này đã thừa nhận rằng kỹ thuật radar của người Nga đã tiến bộ nhanh hơn so với kỹ thuật "chống radar" mà Lockheed dùng để đối phó với chúng.[6] Chiếc SR-71 đã hoạt động nhiều năm trước khi có công trình nghiên cứu mang tính đột phá của Pyotr Ya. Ufimtsev mở đường cho kỹ thuật tàng hình hiện đại; và cho dù có những nỗ lực tốt nhất của Lockheed, chiếc SR-71 vẫn dễ bị radar phát hiện và phát ra tín hiệu hồng ngoại rất lớn khi bay đường trường ở tốc độ Mach 3,2 hay lớn hơn. Nó được nhìn thấy trên radar điều khiển không lưu ở khoảng cách nhiều trăm dặm, ngay cả khi không sử dụng bộ thu phát.[7] Những chiếc SR-71 rõ ràng đã bị radar phát hiện vì nhiều tên lửa đã bắn về phía nó. Chỉ nhờ đặc tính bay của chiếc SR-71 khiến cho nó trở nên không thể bắn hạ trong suốt lịch sử phục vụ; không có chiếc nào bị bắn hạ, cho dù đã có hơn 4.000 nỗ lực để thực hiện điều này.[8]

[sửa] Đặc điểm kỹ thuật (SR-71A)

Orthographically projected diagram of the SR-71A Blackbird.

Tham khảo: SR-71.org[9]

[sửa] Đặc tính chung

  • Đội bay: 02 người
  • Chiều dài: 32,74 m (107 ft 5 in)
  • Sải cánh: 16,94 m (55 ft 7 in)
  • Chiều cao: 5,64 m (18 ft 6 in)
  • Diện tích bề mặt cánh: 170 m² (1.800 ft²)
  • Tỉ lệ dài/rộng cánh: 1,7
  • Lực nâng của cánh : 460 kg/m² (94 lb/ft²)
  • Trọng lượng không tải: 30.600 kg (67.500 lb)
  • Trọng lượng có tải: 77.000 kg (170.000 lb)
  • Trọng lượng cất cánh tối đa: 78.000 kg (172.000 lb)
  • Tải trọng cảm biến: 1.600 kg (3.500 lb)
  • Độ rộng vệt bánh đáp: 5,08 m (16 ft 8 in)
  • Khoảng cách bánh đáp trước-sau: 11,53 m (37 ft 10 in)
  • Động cơ: 2 x động cơ Pratt & Whitney J58-1 turbo phản lực có đốt sau liên tục, lực đẩy 32.500 lbf (145 kN) mỗi động cơ

[sửa] Đặc tính bay

  • Tốc độ lớn nhất: 3530+ km/h (Mach 3,2+, 2.200+ mph) ở độ cao 24.000 m (80.000 ft )
  • Tầm bay tối đa: 5.925 km (3.200 nm)
  • Tầm bay chiến đấu: 5.400 km (2.900 nm)
  • Trần bay: 25.900m m (85.000 ft, 16 mi)
  • Tốc độ lên cao: 60 m/s (11.810 ft/min)
  • Tỉ lệ lực đẩy/khối lượng : 0,382

[sửa] Tham khảo

  1. ^ Blackbird Losses
  2. ^ Xem trang bìa trong của quyển sách SR-71, Secret Missions Exposed của tác giả Paul Crickmore, có chứa một bản sao bản vẽ nguyên thủy của phiên bản được đặt tên là R-12.
  3. ^ Aeronautics Deprived
  4. ^ Non-Standard DOD Aircraft Designations
  5. ^ Johnson 1985
  6. ^ Hott, Bartholomew and Pollock, George E. The Advent, Evolution, and New Horizons of United States Stealth Aircraft. Stealth Aircraft, Access date: 5 May 2007.
  7. ^ Global Security.org
  8. ^ "SR71 Blackbird." PBS documentary, Aired: 15 November 2006.
  9. ^ Lockheed SR-71 Blackbird page on sr-71.org

  • "A Bittersweet and Fancy Flight." Philadelphia Inquirer, 7 March 1990, p. 1.
  • Graham, Richard H. SR-71 Revealed: The Inside Story. St. Paul, Minnesota: MBI Publishing Company, 1996. ISBN 978-0760301227.
  • Hobson, Chris. Vietnam Air Losses, USAF, USN, USMC, Fixed-Wing Aircraft Losses in Southeast Asia 1961–1973. North Branch, Minnesota: Specialty Press, 2001. ISBN 1-85780-1156.
  • Jenkins, Dennis R. Lockheed Secret Projects: Inside the Skunk Works. St. Paul, Minnesota: MBI Publishing Company, 2001. ISBN 978-0760309148.
  • Johnson, C.L. Kelly: More Than My Share of it All. Washington, DC: Smithsonian Books, 1985. ISBN 0-87474-491-1.
  • Shul, Brian and O'Grady, Sheila Kathleen. Sled Driver: Flying the World's Fastest Jet. Marysville, California: Gallery One, 1994. ISBN 0-929823-08-7.
  • "Spy Plane Sets Speed Record, Then Retires (Associated Press)." New York Times, 7 March 1990.
  • Remak, Jeannette and Ventolo, Joe, Jr. A-12 Blackbird Declassified. St. Paul, Minnesota: MBI Publishing Company, 2001. ISBN 0-76031-000-9.
  • Rich, Ben R., and Janos, Leo. Skunk Works: A Personal Memoir of my years at Lockheed. New York: Little, Brown and Company, 1994. ISBN 0-316-74330-5.

[sửa] Liên kết ngoài

[sửa] Nội dung liên quan

[sửa] Máy bay liên quan

[sửa] Máy bay tương tự

  • Bristol 188 (Anh Quốc)
  • RSR (máy bay do thám) (Liên Xô)

[sửa] Trình tự thiết kế

  • XB-68 - RB-69 - B/RS-70 - SR-71

[sửa] Danh sách liên quan



aa - ab - af - ak - als - am - an - ang - ar - arc - as - ast - av - ay - az - ba - bar - bat_smg - bcl - be - be_x_old - bg - bh - bi - bm - bn - bo - bpy - br - bs - bug - bxr - ca - cbk_zam - cdo - ce - ceb - ch - cho - chr - chy - co - cr - crh - cs - csb - cu - cv - cy - da - de - diq - dsb - dv - dz - ee - el - eml - en - eo - es - et - eu - ext - fa - ff - fi - fiu_vro - fj - fo - fr - frp - fur - fy - ga - gan - gd - gl - glk - gn - got - gu - gv - ha - hak - haw - he - hi - hif - ho - hr - hsb - ht - hu - hy - hz - ia - id - ie - ig - ii - ik - ilo - io - is - it - iu - ja - jbo - jv - ka - kaa - kab - kg - ki - kj - kk - kl - km - kn - ko - kr - ks - ksh - ku - kv - kw - ky - la - lad - lb - lbe - lg - li - lij - lmo - ln - lo - lt - lv - map_bms - mdf - mg - mh - mi - mk - ml - mn - mo - mr - mt - mus - my - myv - mzn - na - nah - nap - nds - nds_nl - ne - new - ng - nl - nn - no - nov - nrm - nv - ny - oc - om - or - os - pa - pag - pam - pap - pdc - pi - pih - pl - pms - ps - pt - qu - quality - rm - rmy - rn - ro - roa_rup - roa_tara - ru - rw - sa - sah - sc - scn - sco - sd - se - sg - sh - si - simple - sk - sl - sm - sn - so - sr - srn - ss - st - stq - su - sv - sw - szl - ta - te - tet - tg - th - ti - tk - tl - tlh - tn - to - tpi - tr - ts - tt - tum - tw - ty - udm - ug - uk - ur - uz - ve - vec - vi - vls - vo - wa - war - wo - wuu - xal - xh - yi - yo - za - zea - zh - zh_classical - zh_min_nan - zh_yue - zu -