Lê Thái Tông
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Lê Thái Tông | |
---|---|
Tên húy | Lê Nguyên Long |
Sinh | 1423 |
Mất | 1442 |
Trị vì | 1433 - 1442 |
Triều đại | Nhà Hậu Lê |
Niên hiệu | Thiệu Bình (1434 - 1439), Đại Bảo (1440 - 1442) |
Miếu hiệu | Thái Tông |
Thụy hiệu | Văn Hoàng Đế |
Lê Thái Tông (chữ Hán: 黎太宗;1423-1442) có tên là Lê Nguyên Long (黎元龍), là vua thứ hai nhà Hậu Lê, ở ngôi từ năm 1433 đến 1442. Ông sinh ra tại Lam Sơn, huyện Thọ Xuân, Thanh Hoá, Việt Nam.
Lê Nguyên Long là con thứ hai của vua Lê Thái Tổ, mẹ là Phạm Thị Ngọc Trần. Ông sinh ngày 20 tháng 11 âm lịch năm 1423.
Mục lục |
[sửa] Lên ngôi lúc niên thiếu
Mẹ Lê Nguyên Long mất năm 1425 khi ông mới 3 tuổi và cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chưa kết thúc. Lúc đó anh cả của Nguyên Long là Lê Tư Tề đã trưởng thành và tham gia vào việc quân với vua cha Lê Lợi.
Lê Thái Tổ lên ngôi hoàng đế. Trong triều xảy ra mâu thuẫn giữa hai phe đại thần ủng hộ ông và Tư Tề. Sau, phe Lê Sát ủng hộ ông thắng thế, Tư Tề bị kết luận là "mắc chứng điên cuồng" và bị hạ chức từ Quốc vương xuống quận vương, Nguyên Long được lập làm thái tử.
Năm 1433, Lê Thái Tổ mất, Nguyên Long lên nối ngôi, tức là Lê Thái Tông.
[sửa] Minh quân
Lê Thái Tông lên ngôi lúc mới 11 tuổi có Lê Sát làm phụ chính. Bấy giờ mâu thuẫn trong triều nổ ra giữa những khai quốc công thần, đứng đầu là Tư đồ Lê Sát cùng Lê Ngân và bên kia là các quan xuất thân khoa bảng. Dù còn ít tuổi nhưng ông tỏ ra là người thông minh, quyết đoán, đủ bản lĩnh đối phó với những vấn đề phức tạp của triều đình.
Lê Sát ít học nhưng là công thần nên được Lê Thái Tổ thăng làm tư đồ, cậy quyền làm nhiều điều trái phép, những ai không hợp ý tìm cách hãm hại. Các gian thần Trình Hoàng Bá, Lê Quốc Khí, Đinh Bang Bản, Nguyễn Tông Chí, Lê Đức Dư trước có công về phe với Sát vu cáo Phạm Văn Xảo và Trần Nguyên Hãn, sau vua Thái Tổ đã có lệnh cấm những người đó tham dự triều chính và không được tố cáo nhưng Lê Sát vẫn cố tiến cử với Thái Tông. Vua Thái Tông theo lời can của Phan Thiên Tích, Bùi Cầm Hổ, cương quyết giữ phép tắc của cha, không phục chức cho mấy người đó.
Khi Thái Tông đủ 15 tuổi, lẽ ra Lê Sát phải rút lui nhưng vẫn tham quyền cố vị, tỏ ra chuyên quyền. Thái Tông bất bình bèn bãi chức Sát và Lê Ngân rồi hạ lệnh giết chết.
Năm 1438, vua Thái Tông chỉnh đốn việc thi cử các đạo. Lệ cứ 5 năm một lần thi hương, 6 năm một lần thi hội. Phép thi thì kỳ thứ nhất làm một bài kinh nghĩa, bốn bài tứ thư nghĩa, mỗi bài phải 300 chữ trở lên; kỳ thứ hai làm bài chiếu, bài chế và bài biểu; kỳ thứ ba làm bài thi phú; kỳ thứ tư làm một bài văn sách phải 1.000 chữ trở lên.
Thời Lê Thái Tông có vài lần bạo loạn ở các vùng xa xôi, vua thân chinh hoặc cử các tướng đi đánh, nhanh chóng dẹp được. Những nước lân bang, như Xiêm La (Thái Lan), Chiêm Thành, Ai Lao đều có sứ thần đi lại và thường có tiến cống.
Năm 1442, ông mở khoa thi tiến sĩ, những người thi đỗ đều được khắc tên vào bia đá. Các tiến sĩ được khắc tên vào bia ở Văn Miếu bắt đầu từ đó.
Ngoài ra, ông còn quy định lại những cách thức tiêu dùng tiền và lụa vải ở trong nước; cứ 60 đồng là một tiền; lụa thì cứ dài 30 thước, rộng 1 thước 5 tấc trở lên là một tấm; giấy thì 100 tờ làm một tập.
[sửa] Cốt nhục tương tàn
- Xem chi tiết: Lê Tư Tề
Thái Tông lên ngôi nhưng vẫn lo nguy cơ giành lại địa vị của anh cả Tư Tề. Theo sử sách, do có người tố cáo Tư Tề có lời oán vọng, vua ra lệnh giam lỏng Tư Tề, cấm các quan không được lại gần và cấm Tư Tề vào triều, ai vi phạm sẽ bị tội nặng.
Mẹ già Phạm Thị Nghiêu, tức Phạm Huệ phi, mưu phế bỏ Thái Tông[1], bị ông đưa khỏi kinh thành về Lam Kinh để coi Vĩnh lăng - nơi chôn vua cha Thái Tổ. Sau nghe lời tố cáo của một số thị nữ về lời oán vọng của bà, Thái Tông hạ lệnh ép bà tự sát.
Năm 1438, sau khi giết Lê Sát trực tiếp lên nắm quyền, Thái Tông lập tức phế anh cả Tư Tề làm dân thường. Không lâu sau đó, Tư Tề qua đời.
[sửa] Hoàng đế đa tình và Vụ án Lệ Chi Viên
Lê Thái Tông nhiều vợ và 4 người con trai. Trước khi sinh hoàng tử, Thái Tông đã có 2 bà phi là Lê Ngọc Dao, con Lê Sát và Lê Thị Lệ là con Lê Ngân. Khi Lê Sát và Lê Ngân bị xử tội năm 1437, hai người bị phế. Lê Ngọc Dao bị xuống làm dân thường còn Lê Thị Lệ bị xuống làm Tu dung.
Sau đó Thái Tông sủng ái bà phi Dương Thị Bí và sinh ra con trưởng là Lê Nghi Dân năm 1439.
Năm 1440, Thái Tông bắt đầu sủng ái Nguyễn Thị Anh và lấy cớ Dương Thị Bí kiêu ngạo nên truất làm Minh nghi. Năm sau một người con trai thứ hai là Lê Khắc Xương ra đời, nhưng mẹ không được vua yêu. Cùng năm đó Nguyễn Thị Anh sinh được Lê Bang Cơ. Thái Tông liền truất Nghi Dân làm Lạng Sơn vương và lập Bang Cơ làm thái tử.
Tháng 7 năm 1442, một bà vợ khác là Ngô Thị Ngọc Dao sinh hoàng tử thứ tư là Lê Tư Thành.
Ngoài ra, theo sử sách, cùng việc trọng dụng Nguyễn Trãi, vua Thái Tông còn hay gần gũi với một người thiếp của ông - Nguyễn Thị Lộ, khi đó đã 40 tuổi. Nguyễn Thị Lộ có sắc đẹp, giỏi văn chương nên hay được ra vào cung cấm. Sách Đại Việt Sử ký Toàn thư của nhà Hậu Lê và Khâm định Việt Sử thông giám cương mục của nhà Nguyễn đều chép: Nguyễn Thị Lộ người đẹp, hay chữ, vua cho ra vào cung và sàm sỡ với bà.
Cuối tháng 7 năm 1442, vua Thái Tông đi tuần phía đông, đầu tháng 8 đến Côn Sơn, nơi ở của Nguyễn Trãi. Ngày 4 tháng 8 vua về đến trại Vải (Lê Chi viên), có Nguyễn Thị Lộ theo hầu. Sử sách chép: vua thức suốt đêm hôm đó với Nguyễn Thị Lộ rồi qua đời. Đây chính là Vụ án Lệ Chi Viên nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam. Sách Khâm định Việt Sử thông giám cương mục ghi thêm rằng: vua có ở với bà Thị Lộ nhưng cùng lúc đó bị sốt rét nên qua đời.
Triều đình quy tội cho Nguyễn Thị Lộ và Nguyễn Trãi giết vua và tru di tam tộc. Đây là nghi án lớn trong lịch sử. Việc oan khuất của vợ chồng Nguyễn Trãi sau này đã được Lê Thánh Tông xác nhận. Riêng về nguyên nhân cái chết của Thái Tông, ngày nay một số nhà nghiên cứu đã nêu ra giả thiết chính bà phi Nguyễn Thị Anh là thủ phạm (xem bài Vụ án Lệ Chi Viên).
Ông ở ngôi được 9 năm, thọ 20 tuổi. Ngày 16 tháng 10 năm 1442, ông được táng phía bên trái Vĩnh Lăng ở Lam Sơn gọi là Hựu Lăng, được tôn là Kế Thiên Thể Đạo Hiển Đức Thánh Công Khâm Minh Văn Tư Anh Duệ Triết Chiêu Hiến Kiến Trung Văn Hoàng Đế, miếu hiệu là Thái Tông. Bài văn bia Hựu Lăng do Hàn Lâm viện thị độc học sĩ kiêm tri ngự tiền học sinh cục cận thị chi hậu Nguyễn Thiên Tích soạn.
[sửa] Bình luận
Sách Đại Việt Sử ký Toàn thư nhận định về vua Lê Thái Tông như sau:
- Vua thiên tư sáng suốt, nối vận thái bình; bên trong ức chế quyền thần, bên ngoài đánh dẹp Di Địch. Trọng đạo sùng nho, mở khoa thi chọn hiền sĩ; xử tù, xét án phần nhiều tha thứ khoan hồng. Cũng là bậc vua tài giỏi biết nối giữ cơ đồ. Song đam mê tửu sắc, đến nỗi thình lình băng ở bên ngoài cũng là tự mình chuốc lấy tai họa.
Nhận định như vậy quả là xác đáng.
"Yêu mẹ thì bế con". Vua Thái Tông yêu bà Dương thị nên lập Nghi Dân. Sau đó Nguyễn Thị Anh dù đang được sủng ái nhưng tấm gương mẹ con Dương Thị Bí cùng bị phế truất có lẽ khiến đã bà lo sợ vua Thái Tông "thay lòng đổi dạ" lần nữa vì vua lại mới có thêm Tư Thành, ngoài ra có Khắc Xương còn lớn hơn cả Bang Cơ. Câu chuyện về nguồn gốc của Bang Cơ ngày một lớn mà nhà vua trẻ trung, đa tình có nhiều khả năng còn "được mới nới cũ", sủng ái những người khác, ngôi vị của mẹ con bà Nguyễn Thị bị đe doạ khiến bà quyết định ra tay trước. Đây là trường hợp tranh chấp trong cung đình tương tự như chuyện nhà Đinh.
[sửa] Xem thêm
[sửa] Tham khảo
- Đại Việt thông sử
- Việt Nam sử lược
- Các triều đại Việt Nam - Quỳnh Cư, Đỗ Đức Hùng, NXB Thanh niên, 2001
[sửa] Chú thích
- ^ Sử không chép rõ việc Huệ phi muốn phế Thái Tông lập Tư Tề hay lập ai khác
[sửa] Liên kết ngoài
Tiền nhiệm: Lê Thái Tổ |
Vua nhà Hậu Lê 1/9[1]/1433-4/8[2]/1442 |
Kế nhiệm: Lê Nhân Tông |