Huỳnh Thúc Kháng
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Huỳnh Thúc Kháng hay Hoàng Thúc Kháng[1] (thuở nhỏ có tên là Huỳnh Hanh, tự Giới Sanh, hiệu là Mính Viên [Vườn chè]; 1876–1947) là một chí sĩ yêu nước nổi tiếng của Quảng Nam. Người Việt Nam thường nhắc đến ông với một tên gọi gần gũi: "cụ Huỳnh". Huỳnh Thúc Kháng là một trong Thập Ngũ Phụng Tề Phi của đất Quảng Nam xưa, ông là thủ khoa của kỳ thi hương năm 1900 (Canh Tý).
Mục lục |
[sửa] Tiểu sử
Ông người làng Thạnh Bình, xã Tiên Cảnh, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam.
Huỳnh Thúc Kháng đi học lúc 8 tuổi, đến năm 13 tuổi đã văn hay chữ tốt. Năm Canh Tý (1900), ông dự thi Hương và đậu Giải nguyên. Ông nổi tiếng ở kinh đô Huế, sánh cùng Trần Quý Cáp, Phạm Liệu. Năm Giáp Thìn (1904), ông đỗ Tiến sĩ. Ông cùng với Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh và Trần Quí Cáp là những nhà lãnh đạo phong trào Duy Tân. Vì lý do đó, ông bị bắt trong năm Mậu Thân (1908), rồi bị đày ở Côn Đảo suốt 13 năm (1908-1921) mới được trả tự do.
Năm 1926, ông đắc cử dân biểu rồi được cử làm Viện trưởng Viện Dân biểu Trung Kì. Trong ba năm hoạt động ở Viện, ông cương quyết tranh đấu trong nghị trường, rồi nhân việc chống lại Khâm sứ Pháp Jabouille, ông từ chức. Năm 1927, ông sáng lập tờ báo Tiếng Dân,[2] làm chủ nhiệm kiêm chủ bút báo này tại Huế cho đến khi tờ báo này bị đình bản (1943).
Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh mời ông ra tham gia nội các Chính phủ Liên hiệp lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với chức vụ Bộ trưởng Bộ Nội vụ.
Năm 1946, khi Hồ Chí Minh sang Pháp đàm phán, Huỳnh Thúc Kháng được cử làm quyền Chủ tịch nước. Thời gian này ông còn là chủ tịch Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam (Liên Việt).
Cuối năm 1946, ông là đặc phái viên của chính phủ vào cơ quan Uỷ ban Kháng chiến Hành chính Nam Trung Bộ tại Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi.
Ngày 21 tháng 5 năm 1947, ông lâm bệnh nặng và mất tại gia đình chị Võ Thị Tuyết, thôn Phú Bình, xã Hành Phong, huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi. Làm theo tâm nguyện của cụ, nhân dân đã an táng cụ trên đỉnh núi Thiên Ấn. Nơi đây là đệ nhất thắng cảnh của Quảng Ngãi – "Thiên Ấn niên hà" (Ấn trời đóng xuống sông).
Nhà lưu niệm cụ Huỳnh Thúc Kháng tại xã Tiên Cảnh, huyện Tiên Phước vẫn còn lưu giữ nhiều kỷ vật có giá trị, được một người cháu nuôi trong dòng tộc bảo quản.
[sửa] Học hành rất rộng, chí khí rất bền...
Trong thư gửi vĩnh biệt cụ Huỳnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết:
"Cụ Huỳnh là người học hành rất rộng, chí khí rất bền, đạo đức rất cao. Vì lòng yêu nước mà Cụ trước đây bị bọn thực dân làm tội, đày ra Côn Đảo. Mười mấy năm trường gian nan cực khổ, nhưng lòng son dạ sắt, yêu nước thương nòi của Cụ chẳng những không sờn, mà lại thêm cương quyết.
Cụ Huỳnh là người giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo khó không làm nản chí, oai vũ không làm sờn gan. Cả đời cụ Huỳnh không cần danh vị, không cần lợi lộc, không thèm làm giàu. Cả đời Cụ Huỳnh chỉ phấn đầu cho dân được tự do, nước được độc lập, đến ngày nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập Chính phủ ta mời Cụ ra. Tuy đã 71 tuổi, nhưng Cụ vẫn hăng hái nhận lời, Cụ nói: "Trong lúc phục hưng dân tộc, xây dựng nước nhà thì bất kỳ già, trẻ, trai, gái, ai cũng ra sức phụng sự Tổ quốc"".
[sửa] Tưởng nhớ
Để tưởng nhớ đến ông nhiều tỉnh thành và thành phố như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Quảng Nam...có những con đường và ngôi trường THPT mang tên ông.
[sửa] Tác phẩm
Huỳnh Thúc Kháng đồng thời là một nhà thơ, một nhà nghiên cứu văn học và lịch sử. Ông còn có nhiều bút danh khác như: Sử Bình Tử, Tha Sơn Thạch, Khi Ưu Sinh, Xà Túc Tử, Thức Tự Dân, Ưu Thời Khách, Hải Âu, Ngu Sơn, Khách Quan... Tác phẩm chủ yếu còn giữ hiện nay là:
- Thi Tù Tùng Thoại
- Lịch sử Phan Tây Hồ tiên sinh
- Thơ văn với thời đại
- Thi văn các nhà chí sĩ Việt Nam (kí Phi Bằng)
- Huỳnh Thúc Kháng niên phố
- Bức thư gởi Cường Đế
- Và rất nhiều thơ chữ Quốc ngữ, chữ Hán có giá trị khác...
Bài thơ Bài ca lưu biệt của ông viết năm 1908, trước khi ông bị đày ra Côn Đảo, từng được lưu truyền rộng rãi trong nhân dân miền Trung thời kỳ Pháp thuộc:
- Trăng trên trời có khi tròn khi khuyết,
- Người ở đời đâu khỏi tiết gian nan.
- Đấng trượng phu tuỳ ngộ nhi an,
- Tố hoạn nan hành hồ hoạn nạn.
- Tiền lộ định tri thiên hữu nhãn,
- Thâm tiêu do hứa mộng hoàn gia,
- Bấy nhiên năm cũng vẫn chưa già.
- Nọ núi Ấn, này sông Đà,
- Non sông ấy còn chờ ta thêu dệt.
- Kìa tụ tán chẳng qua là tiểu biệt,
- Ngựa Tái ông hoạ phúc biết về đâu!
- Một mai kia con tạo khéo cơ cầu,
- Thảy bốn biển cũng trong vòng trời đất cả.
- Ư bách niên trung tu hữu ngã,
- Dẫu đến lúc núi sụp, biển lồi, trời nghiêng, đất ngả,
- Tấm lòng vàng, tạc đá vẫn chưa mòn.
- Trăng kia khuyết đó lại tròn!
[sửa] Tham khảo
- Huỳnh Thúc Kháng -Tác giả, tác phẩm
- Huỳnh Thúc Kháng -Từ điển Tiếng Việt
- Quảng Ngãi- Danh nhân
- Câu đối cụ Huỳnh Thúc Kháng mừng thọ Bác Hồ
[sửa] Chú thích
- ^ Ngày trước, họ Hoàng phải đổi thành Huỳnh do kiêng húy Đoan Quốc Công Nguyễn Hoàng. Đến nay các tỉnh miền Trung và Nam vẫn dùng âm Huỳnh, đọc (và viết) là Huỳnh Thúc Kháng thay Hoàng Thúc Kháng.
- ^ Một tờ báo được xuất bản tại Huế, miền Trung Việt Nam vào năm 1927 và bị chính quyền thời bấy giờ đình bản năm (1943). Các báo Tiếng Dân ngày nay không liên quan đến tờ báo trên.