Chùa Giác Lâm
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Loạt bài về
Chùa Việt Nam
- Giác Lâm, Chùa Láng, Một Cột,
- Trấn Quốc, Quán Sứ, Yên Tử
- Bút Tháp, Chùa Cầu, Chùa Dâu
- Giác Viên, Chùa Hương, Chùa Keo
- Chùa Bích Động, Chùa Bái Đính, Chùa Cổ Lễ
- Phổ Minh, Thiên Mụ
- Chùa Trăm Gian, Chùa Đậu, Chùa Linh Sơn
- Chùa Tây An, Chùa Giồng Thành
Chùa Giác Lâm (chữ Hán 覺林寺: Giác Lâm tự) là một trong những ngôi chùa cổ nhất của Thành phố Hồ Chí Minh, tọa lạc tại số 118 đường Lạc Long Quân, Phường 10, Quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh. Chùa được cư sĩ Lý Thụy Long, người Minh Hương, xây dựng vào mùa xuân năm Giáp Tý 1744 đời chúa Thế Tông (Nguyễn Phúc Khoát) năm thứ bảy. Chùa còn mang nhiều tên khác như Cẩm Sơn, Sơn Can hay Cẩm Đệm.
Mục lục |
Trịnh Hoài Đức trong quyển Gia Định thành thông chí đã miêu tả cảnh chùa như sau: "Chùa tọa lạc trên gò Cẩm Sơn, cách phía Tây lũy Bán Bích ba dặm..., cây cao như rừng, hoa nở tựa gấm, sáng chiều mây khói nổi bay quanh quất, địa thế tuy nhỏ mà nhã thú!...".
Chùa đã được Bộ Văn hóa (nay là Bộ Văn hóa - Thông tin) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa quốc gia của Việt Nam theo quyết định số 1288-VH/QĐ ngày 16 tháng 11 năm 1988.
[sửa] Lịch sử
Đầu tiên có vợ chồng cư sĩ tên Lý Thoại Long xây cất một cái am vào năm 1744. Vị cư sĩ có tên riêng là Cẩm, chuyên nghề đan đệm bán nên người địa phương gọi là ông Cẩm Đệm. Năm 1772 hòa thượng Viên Quang tới trụ trì, từ đó mới đổi tên chùa là Giác Lâm.
Chùa đã được trùng tu 3 lần. Hòa thượng Viên Quang cho xây lại chùa lần thứ nhất vào khoảng năm 1799–1804. Đến năm 1906–1909 hòa thượng Trần Như Phòng, pháp hiệu Hoằng Nghĩa và đệ tử là Phạm Văn Tiên, pháp danh Thạnh Đạo, tự Hồng Hưng đã tôn tạo lại ngôi chùa một lần nữa. Các sự kiện này được ghi lại trong đôi liễn mừng lạc thành, nay còn treo trong chánh điện. Đầu năm 1999 chùa hoàn thành đợt trùng tu lần thứ ba.
Trong chùa có bài vị của hai Thiền sư là Minh Vi Mật Hạnh và Minh Khiêm Hoằng Ân. Nơi khuôn viên chùa có tháp Tổ Linh Nhạc-Phật Ý.
[sửa] Kiến trúc
Kiến trúc chùa Giác Lâm được coi là tiêu biểu cho lối kiến trúc của các chùa Nam Bộ, với mặt bằng tổng thể theo kiểu chữ Tam (Ξ); chính điện với kiểu nhà dân gian truyền thống một gian hai chái, bốn cột chính hay còn gọi là tứ trụ. Chùa nguyên thủy không có cổng tam quan (cổng tam quan chỉ mới được xây dựng vào năm 1955), mái chùa gồm 4 vạt và các sống mái đều thẳng. Chùa hình chữ nhật, gồm 3 lớp nhà chính: chính điện, giảng đường và nhà trai, không kể các nhà phụ.Năm 2007, khởi công xây dựng khu giảng đường và tăng xá (phía bên phải chùa - theo hướng nhìn từ trong ra).
Chính điện khá rộng và sâu, có nhiều cột to hơn vòng ôm; khắc câu đối; chữ thiếp vàng.Giữa các hàng cột là các cửa võng, chạm trổ các đề tài trang trí truyền thống như cửu long, tứ linh; tứ quý; hoa điểu…sơn thiếp lộng lẫy. Trong chính điện có bày nhiều tượng đẹp khá lớn: Tượng Phật A Di Đà, Phật Thích Ca, Di Lặc Bồ Tát; Thế Chí Bồ Tát, Quan Thế Âm Bồ Tát, bộ tượng Cửu Long đúc bằng đồng… Ngoài ra còn có tượng Mười Tám Vị La Hán, tượng Thập Điện Diêm Vương, tượng Tổ Sư Đạt Ma, tượng Long Vương… Điều đặc biệt là tại chùa Giác Lâm có đến 02 bộ tượng Thập bát La Hán và 02 bộ tượng Thập điện Diêm Vương.
Trước chùa là bảo tháp xá lợi gồm 7 tầng hình lục giác. Tháp được khởi công xây dựng từ năm 1970 theo bản vẽ của kiến trúc sư Vĩnh Hoằng, đến năm 1975 thì tạm ngưng cho đến 1993 mới được tiếp tục. Từ năm 1994 tầng 7 của tháp thờ Xá Lợi Phật tổ.
Chùa còn 113 ngôi tượng cổ, chủ yếu là tượng gỗ, các cột chính của chùa đều có khắc câu đối, chữ thếp vàng, khung viền đều được chạm trổ công phu. Bên trái cùa chùa là khu mộ tháp của các vị hòa thượng đã trụ trì ở đây.
[sửa] Tham khảo
- Vương Hồng Sến, Sài Gòn năm xưa.
- Huỳnh Minh, Gia Định xưa (1973), NXB Thanh Niên in lại năm 2001.
- Lê Quang Ninh, Stéphane Dovert, Sài Gòn - Ba thế kỷ phát triển và xây dựng, NXB thành phố Hồ Chí Minh, 2004.
- Võ Văn Tường – Huỳnh Như Phương, Danh lam nước Việt, NXB Mỹ Thuật, 1995
- Sổ tay văn hoá Việt Nam, Đặng Đức Siêu, Nhà Xuất bản Lao Động 2006