See also ebooksgratis.com: no banners, no cookies, totally FREE.

CLASSICISTRANIERI HOME PAGE - YOUTUBE CHANNEL
Privacy Policy Cookie Policy Terms and Conditions
B-17 Flying Fortress – Wikipedia tiếng Việt

B-17 Flying Fortress

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

B-17 Flying Fortress
Kiểu Máy bay ném bom chiến lược
Hãng sản xuất Boeing
Chuyến bay đầu tiên 28 tháng 7-1935[1]
Được giới thiệu Tháng 4-1938
Hãng sử dụng chính Không lực Lục quân Hoa Kỳ
Không quân Hoàng gia Anh
Được chế tạo 1936–1945
Số lượng được sản xuất 12.731[2]
Chi phí máy bay 238.329 Đô la Mỹ[3]


Chiếc Boeing B-17 Flying Fortress (Pháo đài bay) là kiểu máy bay ném bom hạng nặng 4 động cơ của Không lực Lục quân Hoa Kỳ (USAAC). Cạnh tranh cùng với Douglas và Martin trong một hợp đồng chế tạo 200 máy bay, thiết kế của hãng Boeing vượt trội hơn cả 2 đối thủ và đáp ứng những yêu cầu của Không lực. Cho dù Boeing bị mất hợp đồng do máy bay nguyên mẫu bị rơi, Không lực Mỹ vẫn bị ấn tượng bởi thiết kế của Boeing và đặt hàng 13 chiếc B-17. B-17 Flying Fortress tiếp tục được đưa vào sản xuất và được xem là chiếc máy bay lớn đầu tiên sản xuất hằng loạt, lần lượt trãi qua các phiên bản cải tiến từ B-17A đến B-17G.

B-17 được sử dụng chủ yếu trong các chiến dịch ném bom chiến lược chính xác ban ngày vào các mục tiêu công nghiệp và dân sự của Đức trong Thế Chiến II. Các đơn vị Mỹ là Không Lực 8 đóng tại Anh và Không Lực 15 đóng tại Ý góp phần bổ sung cho nhiệm vụ ném bom khu vực ban đêm của Bộ chỉ huy Không quân Ném bom thuộc Không quân Hoàng gia Anh trong chiến dịch Pointblank, giúp đạt được ưu thế trên không trên các thành phố, nhà máy và chiến trường Tây Âu chuẩn bị cho Trận chiến Normandy.[4] B-17 cũng tham gia, với quy mô hạn chế hơn, tại Mặt trận Thái Bình Dương.

Từ khởi đầu trước chiến tranh, Không lực Mỹ đã xem máy bay này là vũ khí chiến lược quan trọng. Nó là một máy bay có uy lực lớn, bay cao, ném bom tầm xa, có sức phá hủy lớn trong khi có khả năng tự phòng thủ. Với khả năng quay về sân bay nhà cho dù hư hại nặng trong chiến đấu, độ bền - nhất là đáp bằng bụng và đáp trên mặt nước, nhanh chóng lan truyền như một huyền thoại.[5][6][7] Những câu chuyện và hình ảnh những chiếc B-17 sống sót sau những hư hại trong chiến đấu được truyền tay nhau, càng nâng cao tính biểu tượng của nó.[8] Cho dù tầm bay và tải trọng bom đều kém hơn so với chiếc B-24 Liberator vốn có số lượng nhiều hơn,[9] một cuộc điều tra trên các phi đội của Không Lực 8 cho thấy mức độ hài lòng cao hơn dành cho chiếc B-17.[10] Với trần bay cao hơn mọi máy bay Đồng Minh đương thời, B-17 trở nên một hệ thống vũ khí tuyệt vời ở chính nó, ném nhiều bom hơn bất kỳ máy bay Mỹ nào khác trong Thế Chiến II. Trong số 1,5 triệu tấn bom ném xuống Đức, 500.000 tấn được ném bởi B-17.

Mục lục

[sửa] Thiết kế và phát triển

Chiếc thử nghiệm Kiểu 299 bị rơi
Chiếc thử nghiệm Kiểu 299 bị rơi
Chiếc B-17A đang bay ngang qua tàu hành khách Rex của Ý
Chiếc B-17A đang bay ngang qua tàu hành khách Rex của Ý

Ngày 8 tháng 8 năm 1934, Không lực Lục quân Hoa Kỳ (USAAC) mở thầu một kiểu máy bay ném bom nhiều động cơ nhằm thay thế cho chiếc Martin B-10. Các yêu cầu là nó phải mang được "tải trọng bom hữu ích" ở độ cao 3 km (10.000 ft) trong 10 giờ với tốc độ tối đa ít nhất là 322 km/h (200 mph).[11][12] Họ cũng mong mỏi, nhưng không bắt buộc, tầm bay xa 3.200 km (2.000 ml) và tốc độ đạt 400 km/h (250 mph). Không lực đang tìm kiếm một kiểu máy bay ném bom có khả năng tăng cường lực lượng không quân tại Hawaii, Panama, và Alaska.[13] Cuộc cạnh tranh sẽ được quyết định bằng cuộc thi loại tại căn cứ Wright Field, Dayton, Ohio. Boeing sẽ phải cạnh tranh cùng với những chiếc Douglas DB-1 và Martin Model 146 để được hợp đồng của Không lực.

Chiếc nguyên mẫu B-17, đặt tên Kiểu 299, được thiết kế bởi một nhóm kỹ sư dưới sự lãnh đạo bởi E. Gifford Emery và Edward Curtis Wells, được chế tạo bằng kinh phí riêng của Boeing.[12] Nó kết hợp những tính năng của kiểu ném bom thử nghiệm Boeing XB-15 và máy bay vận chuyển Boeing 247.[11] B-17 mang được đến 2.180 kg (4.800 lb) trên 2 giá trong khoang bom phía sau khoang lái và được trang bị năm súng máy 7,62 mm (0,30 inch), và gắn bốn động cơ Pratt & Whitney R-1690 bố trí hình tròn, mỗi chiếc cung cấp 750 mã lực (600 kW) ở độ cao 2.130 m (7.000 ft).[12]

Trong cuộc bay loại, thiết kế của chiếc Boeing 4-động cơ trình diễn tính năng bay hơn hẳn những kiểu 2-động cơ DB-1 và 146, và tướng Frank Maxwell Andrews thuộc bộ chỉ huy Không lực tin rằng khả năng bay tầm xa của loại máy bay lớn 4-động cơ sẽ hiệu quả hơn máy bay 2 động cơ có tầm bay ngắn hơn. Quan điểm của ông cũng được sự đồng tình của các quan chức mua sắm Không lực, và cho dù cuộc cạnh tranh chưa kết thúc họ đã đề nghị đặt mua 65 chiếc B-17s.[14]

Công việc phát triển vẫn được tiếp tục trên chiếc Boeing Kiểu 299, nhưng vào ngày 30 tháng 10 năm 1935, các phi công thử nghiệm của Không lực Ployer, Hill, và Tower, lái chiếc 299 trên chuyến bay đánh giá lần thứ hai. Đội bay quên nhả các "khóa gió" của máy bay, một thiết bị giữ những mặt phẳng điều khiển máy bay cố định tại chỗ khi máy bay đậu trên mặt đất; và khi cất cánh nó bị mất kiểm soát và rơi, giết chết toàn bộ đội bay.[15][16] Sự kiện này làm cho Kiểu 299 không thể hoàn tất việc đánh giá, và trong khi Không lực còn đang say mê những tiềm năng của chiếc máy bay, các viên chức Lục quân lại bị thoái chí vì giá cả của nó đắt hơn gấp đôi những chiếc cạnh tranh.[17][18] Tham mưu trưởng Lục quân Malin Craig hủy bỏ việc mua 67 chiếc B-17, và đặt hàng 133 chiếc Douglas B-18 Bolo 2-động cơ thay thế.[14][12]

Bất kể những việc ấy, Không lực vẫn bị ấn tượng bởi tính năng của kiểu máy bay nguyên mẫu, nên vào ngày 17 tháng 1 năm 1936, Không lực, thông qua một kẻ hở pháp lý,[19] đặt hàng 13 chiếc YB-17 để thử nghiệm hoạt động thực tế. Chiếc YB-17 có những thay đổi đáng kể so với Kiểu 299, bao gồm động cơ Wright R-1820-39 Cyclone mạnh hơn thay cho kiểu Pratt & Whitneys ban đầu.

Ngày 1 tháng 3 năm 1937, 12 trong tổng số 13 chiếc YB-17 được giao cho Phi đội Ném bom 2 tại căn cứ Langley Field, Virginia, và được dùng trong việc phát triển các kỹ thuật ném bom hạng nặng cũng như tìm và sửa lỗi.[11] Có một đề nghị là việc dùng danh sách kiểm tra để tránh những tai nạn kiểu chiếc 299.[20][19] Ở một trong những phi vụ đầu tiên, ba chiếc B-17 do một phi công tiên phong là Trung úy Curtis LeMay dẫn đầu, được tướng Andrews phái đi "đánh chặn" chiếc tàu hành khách Ý Rex 1.290 km (800 dặm) ngoài khơi Đại Tây Dương và chụp ảnh. Nhiệm vụ thành công được loan báo rộng rãi trong công luận.[21]

Chiếc YB-17 thứ 13 được giao cho căn cứ Wright Field, Ohio, để dùng bay thử nghiệm.[22] Chiếc YB-17 thứ 14 (số hiệu 37-369), ban đầu được chế tạo để thử nghiệm trên mặt đất về độ bền của khung máy bay, được nâng cấp và trang bị bộ tăng áp vận hành bằng khí xả. Được lên kế hoạch để bay vào năm 1937, nó gặp phải nhiều vấn đề về bộ tăng áp nên chuyến bay đầu tiên bị hoãn đến 29 tháng 4 năm 1938.[23] Việc cải tiến làm Boeing tiêu tốn mất 100.000 đô la và mãi cho đến mùa Xuân năm 1939 mới hoàn thành, nhưng mang lại kết quả là gia tăng tầm bay và tốc độ tối đa.[24] Chiếc máy bay được giao cho Lục quân ngày 31 tháng 1 năm 1939 và được đặt tên là B-17A để nhấn mạnh phiên bản biến thể hoạt động đầu tiên.[25]

Cuối năm 1937, Không Lực đặt mua thêm mười chiếc ký hiệu B-17B, và không lâu sau, 29 chiếc nữa.[24] Được cải tiến với cánh tà và cánh đuôi lớn hơn, mũi máy bay làm bằng kính Plexiglas, chiếc B-17B được giao trong thời gian giữa tháng 7 năm 1939tháng 3 năm 1940. Nó được trang bị cho 2 phi đội ném bom, mỗi phi đội ở một bờ biển của lục địa Mỹ.[26][27]

Vấn đề chính về cấu trúc và điều khiển của chiếc B-17 không được giải quyết cho đến khi có một thiết kế mới (sau một tai nạn tại California bộc lộ ra vấn đề), đưa đến việc ra đời phiên bản B-17 Flying Fortress Kiểu E có sống lưng và hệ thống phản hồi thứ cấp hoạt động của động cơ. Sống lưng kéo dài đến đuôi giúp gia tăng tính năng bay và độ vững chắc của cấu trúc. Nó được đánh giá là dễ điều khiển so với những chiếc máy bay ném bom cùng thời B-24 và Avro Lancaster.

Ngay trước cuộc tấn công Trân Châu Cảng, chỉ có gần 200 chiếc B-17 đang phục vụ trong Lục quân,[19] nhưng việc sản xuất được nhanh chóng tăng tốc, và B-17 trở nên chiếc máy bay lớn đầu tiên được sản xuất thực sự hằng loạt.[28][29] Chiếc máy bay tham gia phục vụ trên mọi mặt trận của Thế Chiến II, và cho đến khi việc sản xuất được ngưng lại vào tháng 5 năm 1945, có 12.731 chiếc được sản xuất bởi Boeing, Douglas và Vega (một chi nhánh của Lockheed).[30]

[sửa] Lịch sử hoạt động

Những chiếc B-17 Flying Fortress tại Tây Âu trong Thế Chiến II
Những chiếc B-17 Flying Fortress tại Tây Âu trong Thế Chiến II

B-17 bắt đầu hoạt động trong Thế Chiến II với Không quân Hoàng gia Anh từ năm 1941, các đơn vị Không lực 8 và Không lực 15 của Không lực Lục quân Hoa Kỳ từ năm 1942, và được dùng chủ yếu trong các chiến dịch ném bom chiến lược chính xác ban ngày các mục tiêu công nghiệp của Đức. Chiến dịch Pointblank (Điểm trắng) là những trận tấn công có định hướng chuẩn bị cho tấn công trên bộ.[31]

Trong Thế Chiến II, B-17 được trang bị cho 32 phi đội đóng ở nước ngoài, số lượng cao nhất là vào tháng 8 năm 1944 với 4.574 chiếc thuộc Không lực Mỹ khắp thế giới,[32] và đã ném 580.630 tấn bom xuống các mục tiêu tại Châu Âu (so với 410.508 tấn ném bởi Liberator và 420.520 tấn bởi tất cả các máy bay Mỹ khác). Có khoảng một phần ba, tức khoảng 4.750 chiếc, B-17 bị mất trong chiến đấu.[9]

[sửa] Không quân Hoàng gia Anh

Không quân Hoàng gia Anh (RAF) tham chiến Thế Chiến II mà không có được máy bay ném bom hạng nặng của riêng họ cho đến tận năm 1941, khi Short Stirling và Handley Page Halifax mới trở nên những máy bay ném bom chủ yếu. Đầu năm 1940, Không quân Hoàng gia đạt được thỏa thuận với Không Lực Mỹ để được cung cấp 20 chiếc B-17C, được đặt tên lại là Fortress I. Chiến dịch đầu tiên của chúng là ném bom xuống thành phố Wilhelmshaven, Hạ Saxony, ngày 8 tháng 7 năm 1941.[33][26][34] Vào lúc đó, Không Lực Mỹ quy ước việc ném bom tầm cao là ở độ cao 6 km (20.000 ft), nhưng để tránh bị các máy bay tiêm kích đánh chặn, Không quân Hoàng gia đã ném bom vào các căn cứ hải quân ở độ cao 9 km (30.000 ft).[35] Chúng đã không thể ném bom trúng đích, và nhiệt độ quá lạnh làm các súng máy bị đông cứng không hoạt động.[36] Ngày 24 tháng 7, họ thử lại trên một mục tiêu khác, thành phố Brest ở Pháp, và cũng không trúng đích.

Đến tháng 9, sau khi Không quân Hoàng gia bị mất tám chiếc B-17C trong chiến đấu hay do tai nạn, Bộ Chỉ huy Ném bom đã từ bỏ việc ném bom chính xác ban ngày do khả năng kém cõi của những chiếc Fortress I. Những chiếc còn lại được chuyển cho nhiều nhiệm vụ khác nhau bao gồm phòng thủ duyên hải.[36] Kinh nghiệm trên đã chứng minh cho cả Không quân Hoàng gia lẫn Không Lực Mỹ tình trạng không sẵn sàng chiến đấu của chiếc B-17C, và nó cần được cải tiến về phòng thủ, tăng tải trọng bom và phương pháp ném bom chính xác hơn vào trong các phiên bản tiếp theo. Hơn nữa, ngay cả với các cải tiến này, chỉ còn có Không Lực Mỹ, chứ không phải Không quân Hoàng gia, còn ý định muốn sử dụng B-17 trong vai trò ném bom ban ngày.[35]

Không quân Hoàng gia chuyển giao những chiếc Fortress I còn lại sang Bộ Chỉ huy Duyên hải để sử dụng trong vai trò máy bay tuần tra tầm xa. Chúng được tăng cường sau này bởi 19 chiếc Fortress Mk II (B-17F) và 45 chiếc Fortress Mk IIA (B-17E) vào tháng 8 năm 1942.[37] Một chiếc Fortress của Phi Đội 206 RAF đã đánh chìm tàu ngầm U-627 vào ngày 27 tháng 10 năm 1942, chiếc đầu tiên trong tổng số 11 chiếc U-boat bị đánh chìm do máy bay Fortress của Không quân Hoàng gia trong chiến tranh.[38]

[sửa] Không lực Mỹ

Bốn nữ phi công rời khỏi máy bay sau buổi tập của đơn vị Nữ Phi công Phục vụ Không lực (WASP) tại Lockbourne, được huấn luyện để vận chuyển máy bay B-17 Flying Fortress đến chiến trường.
Bốn nữ phi công rời khỏi máy bay sau buổi tập của đơn vị Nữ Phi công Phục vụ Không lực (WASP) tại Lockbourne, được huấn luyện để vận chuyển máy bay B-17 Flying Fortress đến chiến trường.

Đối với Không lực Mỹ (tên đặt đầy đủ là Không lực Lục quân Hoa Kỳ/USAAF năm 1941), B-17 và các kiểu máy bay ném bom khác đều có khả năng thả bom chính xác ban ngày ở tầm cao bằng cách sử dụng một thiết bị mà cho đến lúc ấy còn đang được giữ bí mật là bộ ngắm ném bom Norden, là thiết bị quang học với con quay hồi chuyển cơ-điện điều khiển bằng máy tính. Trong các phi vụ ném bom ban ngày, thiết bị có khả năng xác định, thông qua các tham số do sĩ quan ném bom đưa vào, điểm có thể thả bom có khả năng trúng đích. Trong lúc ném bom, quyền kiểm soát lái máy bay được chuyển cho sĩ quan ném bom, duy trì một độ cao ngang bằng vào những phút cuối.[39]

Không lực Mỹ khởi sự gầy dựng lực lượng tại Châu Âu với máy bay B-17E không lâu sau khi Mỹ tham gia Thế Chiến II. Các đơn vị đầu tiên của Không lực 8 đến High Wycombe, Anh Quốc ngày 12 tháng 5 năm 1942, thành lập nên Không đoàn Ném bom 97.[11] Ngày 17 tháng 8 năm 1942, 18 chiếc B-17E của Không đoàn 97, bao gồm chiếc Yankee Doodle do Trung tướng Paul Tibbets và Thiếu tướng Ira Eaker chỉ huy, được hộ tống bởi những máy bay tiêm kích Supermarine Spitfire của Không quân Hoàng gia, tham dự trận ném bom đầu tiên của Không lực Mỹ tại Châu Âu xuống ga đầu mối đường sắt tại Rouen-Sotteville trên nước Pháp.[40][11] Chiến dịch hoàn toàn thành công chỉ với những hư hại nhẹ cho hai máy bay.

[sửa] Phối hợp chiến lược tấn công

Chiếc B-17F-5-BO All American, số hiệu 41-24406, thuộc Phi đội 414, Liên đội 97 sau khi va chạm với một chiếc Fw 190 ngày 1 tháng 2 năm 1943 trong một phi vụ đến Bizerte. Trung úy phi công Kendrick R. Bragg mang được máy bay quay về căn cứ an toàn, nơi nó được sửa chữa và tiếp tục hoạt động cho đến khi bị thải hồi ngày 6 tháng 3 năm 1945. Ảnh do đồng đội trên chiếc Fortress 41-24412 chụp.
Chiếc B-17F-5-BO All American, số hiệu 41-24406, thuộc Phi đội 414, Liên đội 97 sau khi va chạm với một chiếc Fw 190 ngày 1 tháng 2 năm 1943 trong một phi vụ đến Bizerte. Trung úy phi công Kendrick R. Bragg mang được máy bay quay về căn cứ an toàn, nơi nó được sửa chữa và tiếp tục hoạt động cho đến khi bị thải hồi ngày 6 tháng 3 năm 1945. Ảnh do đồng đội trên chiếc Fortress 41-24412 chụp.

Hai chiến lược khác nhau cuả Bộ chỉ huy ném bom Hoa Kỳ và Anh Quốc được tổ chức lại tại Hội nghị Casablanca vào tháng 1 năm 1943. Kết quả là Chiến dịch Pointblank được vạch ra nhằm một chiến lược "Phối hợp tấn công ném bom" nhằm làm suy yếu quân đội Đức Quốc Xã và chiếm được ưu thế trên không nhằm chuẩn bị cho việc tấn công trên bộ.[4] Chiến dịch Pointblank mở đầu bằng các cuộc tấn công các mục tiêu tại Tây Âu. Tướng Ira C. Eaker và Không lực 8 đặt ưu tiên cao nhất trong việc tấn công vào công nghiệp hàng không Đức, đặc biệt là các nhà máy lắp ráp máy bay tiêm kích, chế tạo động cơ và chế tạo vòng bi.[4]

Ngày 17 tháng 4 năm 1943, một cuộc tấn công vào nhà máy của Focke-Wulf tại Bremen thực hiện bởi 115 chiếc Fortress mang lại ít kết quả, 16 chiếc bị bắn rơi và 48 chiếc khác bị hư hại.[41] Tuy nhiên cuộc tấn công cũng mang lại hiệu quả là khoảng phân nữa lực lượng tiêm kích trong Không quân Đức bị buộc phải chuyển sang nhiệm vụ chống máy bay ném bom.

Vì việc ném bom các sân bay Đức không làm giảm được tương xứng sức mạnh của máy bay tiêm kích Đức, nên khi có thêm các liên đội B-17 được thành lập, Eaker yêu cầu mở các chiến dịch đánh sâu hơn vào các mục tiêu công nghiệp Đức quan trọng. Giờ đây Không lực 8 nhắm đến các nhà máy vòng bi tại Schweinfurt, hy vọng sẽ bóp nghẹt các nỗ lực chiến tranh ở đây. Đợt tấn công đầu tiên ngày 17 tháng 8 năm 1943 không gây được tổn hại đáng kể nào cho nhà máy, trong khi 230 chiếc B-17 tham gia tấn công bị đánh chặn bởi khoảng 300 máy bay tiêm kích Không quân Đức. 36 máy bay bị bắn rơi và tổn thất 200 người, cùng với trận không kích cùng ngày trước đó nhắm vào Regensburg, tổng cộng có 60 chiếc B-17 bị mất trong ngày đó.

Một nỗ lực thứ hai vào ngày 14 tháng 10 năm 1943 mà sau này được biết đến như là "Ngày thứ ba Đen tối".[42] Trong số 291 chiếc Fortress tham gia tấn công, 59 bị bắn rơi trên đất Đức, một chiếc rơi xuống eo biển Anh, năm chiếc rơi trên đất Anh, và 12 chiếc nữa bị loại bỏ vì hư hại (tổn thất do hỏa lực phòng không nhiều hơn là do máy bay tiêm kích Đức), tổng cộng có 77 chiếc B-17 bị mất. 122 chiếc khác bị hư hại cần sửa chữa trước khi có thể tiếp tục bay. Trong tổng số 2.900 nhân viên phi hành, có 650 người không quay về, dù một số còn sống sót và bị bắt làm tù binh chiến tranh. Năm người chết và 43 bị thương trên những chiếc máy bay quay trở về được, và 594 người được ghi nhận là mất tích. Chỉ có 33 chiếc máy bay ném bom hạ cánh mà không bị hư hại. Tổn thất của các đội bay là không thể bù đắp được, và Không Lực, ý thức sự mong manh của những máy bay ném bom hạng nặng trước các kiểu máy bay tiêm kích đánh chặn, đã tạm ngưng các cuộc không kích ban ngày sâu vào lãnh thổ Đức cho đến khi phát triển được kiểu máy bay tiêm kích hộ tống tầm xa có khả năng bảo vệ những máy bay ném bom suốt hết chặng đường từ Anh sang Đức và ngược lại.

Cuộc tấn công thứ ba nhắm vào Schweinfurt ngày 24 tháng 2 năm 1944 được ghi dấu sau này như là "Tuần lễ Vĩ đại". Với những chiếc máy bay tiêm kích P-51 MustangP-47 Thunderbolt (trang bị thùng nhiên liệu phụ vứt được cải tiến để tăng tầm bay) theo hộ tống suốt chặng đường đến mục tiêu và quay trở về, chỉ có 11 trong số 231 chiếc B-17 bị mất.[43] Máy bay tiêm kích hộ tống giúp làm giảm tỉ lệ tổn thất dưới 7%, nên chỉ có 244 chiếc B-17 bị mất trong 3500 phi vụ được thực hiện trong "Tuần lễ Vĩ đại".[44]

Cho đến tháng 9 năm 1944, 27 trong tổng số 40 liên đội ném bom của Không lực 8 và sáu trong tổng số 21 liên đội ném bom của Không lực 15 sử dụng B-17. Tổn thất do pháo phòng không gây ra cho những máy bay ném bom hạng nặng tiếp tục ở mức độ cao trong suốt năm 1944, nhưng cho đến ngày 27 tháng 4 năm 1945, (hai ngày sau trận ném bom hặng nặng lớn cuối cùng xuống Châu Âu) mức độ tổn thất thấp đến mức không cần bổ sung máy bay thay thế và số lượng máy bay trong mỗi liên đội ném bom được giảm bớt. Đợt Phối hợp Tiến công Chiến lược được kết thúc hiệu quả.[45]

[sửa] Mặt trận Thái Bình Dương

B-17 được sử dụng trong các trận chiến ban đầu tại Thái Bình Dương nhưng đem lại ít kết quả, đáng kể là trong các Trận đánh Biển San hô và Trận Midway. Trong lúc đó, những chiếc B-17 thuộc Không lực 5 được giao nhiệm vụ phá vỡ các đường vận chuyển trên biển của Nhật. Học thuyết của Không lực hướng dẫn việc bay ném bom từ tầm cao, nhưng được phát hiện không lâu sau đó là chỉ có 1% bom trúng đích. Dù sao, B-17 hoạt động ở độ cao lớn đến mức đa số những chiếc máy bay tiêm kích A6M Zero không thể đạt tới, và trang bị vũ khí phòng thủ rất mạnh của chiếc B-17 là quá đủ cho những chiếc máy bay tiêm kích Nhật Bản vốn được bảo vệ khá mong manh.

Chỉ huy của Không lực 5, Trung tướng George Kenney, là một người rất hâm hộ kỹ thuật mới cắt ném bom (skip bombing) (một kỹ thuật ném bom mà bom được thả ở độ cao rất thấp, khiến bom chạm mặt nước ở một góc đủ nông để nó được “cắt” hay uốn cong xuống). Vào ngày 23 tháng 10 năm 1942, sáu chiếc B-17 thuộc Phi Đội 64 thực hiện ném bom theo cách thông thường từ độ cao 3 km (10.000 ft) trong khi sáu máy bay ném bom thuộc Phi Đội 63 bay đến ở độ cao 30 m (100 ft) để cắt bom vào sườn những chiếc tàu chiến Nhật Bản trong Trận đánh Biển Bismarck.[46] Vào lúc cao điểm có 168 chiếc máy bay ném bom B-17 hoạt động tại mặt trận này vào thời điểm tháng 9 năm 1942, tất cả chuyển sang loại máy bay khác vào giữa năm 1943.

[sửa] Phòng vệ những chiếc máy bay ném bom

Một phần của dòng máy bay B-17 của Không lực Mỹ lên đến trên 1.000 chiếc
Một phần của dòng máy bay B-17 của Không lực Mỹ lên đến trên 1.000 chiếc
Đội hình B-17 đang bay qua lưới lửa pháo phòng không dày đặc trên bầu trời Merseburg, Đức
Đội hình B-17 đang bay qua lưới lửa pháo phòng không dày đặc trên bầu trời Merseburg, Đức

Trước khi có việc hộ tống tầm xa bằng máy bay tiêm kích, những chiếc B-17 chỉ có thể dựa vào những khẩu súng máy M2 Browning 12,7 mm (0,50 in) để tự vệ trong khi ném bom bên trên bầu trời Châu Âu. Khi cuộc chiến ngày càng ác liệt, Boeing sử dụng những thông tin phản hồi từ các đội bay để cải tiến các phiên bản mới hơn với số vũ khí và vỏ giáp ngày càng tăng.[47] Số lượng súng máy phòng thủ tăng từ bốn khẩu súng máy 12,7 mm (0,50 in) và một khẩu súng máy 7,62 mm (0,30 in) trước mũi của phiên bản B-17C, lên đến 13 khẩu súng máy 12,7 mm (0,50 in) trên phiên bản B-17G. Nhưng vì những chiếc máy bay ném bom không thể cơ động khi bị các máy bay tiêm kích tấn công, và trong những phút cuối cùng bay ném bom nó cần phải bay ngang và thẳng, những chiếc máy bay đơn lẻ nỗ lực để né tránh những cú tấn công trực tiếp.

Một cuộc điều tra của Không lực Mỹ tiến hành năm 1943 tìm thấy rằng trên phân nữa các máy bay ném bom bị Đức bắn rơi đã rời bỏ sự bảo vệ của đội hình chính.[48] Để đối phó vấn đề này, Không lực Mỹ đã đề ra một nhóm đội hình máy bay ném bom, sẽ phát triển thành kiểu đội hình chiến đấu hình hộp so le, nơi mà tất cả những chiếc B-17 có thể an toàn che chở bất kỳ máy bay nào khác trong đội hình với những khẩu súng máy, làm cho đội hình những chiếc máy bay ném bom là một mục tiêu nguy hiểm cho máy bay tiêm kích địch đến tấn công.[49][41] Tuy nhiên, việc sử dụng một đội hình cứng nhắc như thế có nghĩa là từng máy bay riêng rẽ không thể thực hiện những cơ động lẫn tránh: Chúng phải luôn luôn bay thành một đường thẳng, làm cho chúng trở nên mong manh trước những khẩu pháo phòng không 88 mm của Đức. Thêm vào đó, những chiếc máy bay tiêm kích Đức sau này áp dụng chiến thuật bắn phá lướt qua tốc độ cao thay vì nghênh chiến từng chiếc máy bay một, cho phép gây thiệt hại nhiều nhất với nguy cơ tối thiểu.

Kết quả là, tỉ lệ tổn thất của B-17 cao đến 25% trong một số phi vụ lúc đầu (60 trong tổng số 291 chiếc B-17 bị mất trong chiến đấu trong đợt không kích thứ hai nhắm vào Schweinfurt[50]), và phải cho đến khi có sự tham gia của việc hộ tống tầm xa bằng máy bay tiêm kích hiệu quả (đặc biệt là bởi những chiếc P-51 Mustang), làm suy yếu lực lượng máy bay tiêm kích đánh chặn Đức giữa tháng 2tháng 6 năm 1944, mà những chiếc B-17 mới trở nên lực lượng chiến lược đầy uy lực.

Chiếc B-17 được ghi nhận là có khả năng chịu đựng hư hại trong chiến đấu mà vẫn đến ̣được mục tiêu và đưa đội bay quay về căn cứ an toàn. Wally Hoffman, một phi công B-17 của Không Lực 8 trong Thế Chiến II, đã nói: "Chiếc máy bay có thể bị cắt và chém hầu như ra thành từng mảnh do hỏa lực đối phương và vẫn có thể mang đội bay của nó quay về nhà."[51] Martin Caidin báo cáo về một tình huống mà một chiếc B-17 bị va chạm trên không cùng một chiếc Focke-Wulf 190, mất một động cơ và bị hư hại nghiêm trọng cả cánh ổn định ngang bên phải cùng cánh đuôi, và bị loại ra khỏi đội hình do cú va chạm. Chiếc máy bay được báo cáo bởi các quan sát viên là bị bắn rơi, nhưng nó vẫn sống sót và đưa được đội bay quay về mà không bị thương tích gì.[52] Sự bền bỉ của nó đã bù đắp nhiều hơn cho tầm bay ngắn hơn và tải trọng bom ít hơn khi so với những chiếc máy bay ném bom hạng nặng Consolidated B-24 Liberator hoặc chiếc Avro Lancaster Anh Quốc. Những câu chuyện đầy dẫy về những chiếc B-17 quay về căn cứ với đuôi bị phá hủy, chỉ còn một động cơ hoạt động, hay thậm chí một diện tích cánh lớn bị pháo phòng không gây hư hại.[53] Sự bền bỉ này, cùng với số lượng lớn máy bay hoạt động trong Không lực 8 và danh tiếng mà chiếc "Memphis Belle" đạt được, làm cho chiếc B-17 trở thành máy bay ném bom đáng kể nhất trong cuộc chiến tranh.

Thiết kế của chiếc B-17 trãi qua tám thay đổi lớn trong suốt quá trình sản xuất, tích lũy lại nơi phiên bản B-17G, khác biệt phiên bản ngay trước nó bằng việc bổ sung một tháp súng “cằm” gồm hai súng máy 12,7 mm (0,50 inch) M2 Browning dưới mũi máy bay. Điều này đã cho phép hạn chế được điểm yếu kém chính trong phòng thủ của chiếc B-17 khi tấn công trực diện.

[sửa] B-17 và Không quân Đức

Chiếc B-17F-27-BO do Không quân Đức chiếm được, nguyên là máy bay của Không lực Mỹ tên "Wulf Hound", số hiệu 41-24585, thuộc Phi đội 360, Không đoàn Ném bom 303, bị mất tích trong hoạt động vào ngày 16 tháng 10 năm 1942. Được đưa ra hoạt động trong Phi đoàn Chiến đấu 200 Không quân Đức.
Chiếc B-17F-27-BO do Không quân Đức chiếm được, nguyên là máy bay của Không lực Mỹ tên "Wulf Hound", số hiệu 41-24585, thuộc Phi đội 360, Không đoàn Ném bom 303, bị mất tích trong hoạt động vào ngày 16 tháng 10 năm 1942. Được đưa ra hoạt động trong Phi đoàn Chiến đấu 200 Không quân Đức.

Sau khi khảo sát xác những chiếc wrecked B-17 và B-24 bị bắn rơi, các quan chức Không quân Đức khám phá ra rằng phải bắn trúng ít nhất 20 phát đạn pháo MG 151 20 mm bắn từ phía sau mới có thể bắn hạ một chiếc B-17. Những phi công với khả năng trung bình chỉ có thể bắn trúng những chiếc máy bay ném bom với khoảng 2% số đạn bắn ra, cho nên để đạt được 20 phát trúng, một phi công trung bình phải ngắm bắn khoảng một ngàn quả pháo 20 mm vào chiếc máy bay ném bom. Những phiên bản đầu tiên của chiếc Fw 190, một trong những máy bay tiêm kích đánh chặn tốt nhất của Đức, được trang bị hai pháo 20 mm và chỉ mang theo được 500 quả đạn. Tầm bắn 400 m của chiếc máy bay tiêm kích cũng ngắn hơn tầm bắn 1.000 m của chiếc B-17, nên nó trở nên mong manh khi tiếp cận rút ngắn khoảng cách này. Người ta nhận ra rằng khi tấn công trực diện, nơi có ít khẩu súng phòng thủ được ngắm đến, chỉ cần bốn hay năm phát trúng là có thể bắn hạ chiếc máy bay ném bom.[54] Để sửa chữa thiếu sót của chiếc Fw 190, số khẩu pháo trên chiếc máy bay tiêm kích được tăng gấp đôi thành bốn khẩu và số lượng đạn cũng được tăng thên tương ứng, và đến năm 1944 được nâng cấp lên kiểu pháo MK 108 30 mm, cho phép bắn hạ chiếc máy bay ném bom chỉ trong vài phát trúng. Chiếc Me 262 cũng ghi được những thắng lợi trung bình trên chiếc B-17 trong giai đoạn sau của cuộc chiến. Trang bị rocket R4M, nó có thể bắn từ bên ngoài tầm của những khẩu súng máy 0,50 in phòng thủ của chiếc máy bay ném bom, và bắn hạ nó chỉ cần với một phát trúng duy nhất.[55]

Trong Thế Chiến II, sau khi bị rơi hoặc buộc phải hạ cánh, có khoảng 40 chiếc B-17 bị Không quân Đức chiếm giữ và tân trang, và khoảng một tá chiếc được đưa trở lại hoạt động. Được sơn màu của Đức và mang tên hiệu "Dornier Do 200"[56], những chiếc B-17 chiếm giữ được Không quân Đức sử dụng trong các phi vụ do thám bí mật và trinh sát, đa số là bởi một đơn vị Không quân Đức bí mật được biết dưới tên gọi Phi đoàn Chiến đấu 200 (Kampfgeschwader 200).[56] Một chiếc B-17 thuộc phi đoàn này, mang ký hiệu Không quân Đức A3+FB, bị Tây Ban Nha chiếm giữ khi nó hạ cánh xuống sân bay Valencia vào ngày 27 tháng 6 năm 1944, và ở lại đó cho đến hết chiến tranh. Một số chiếc B-17 vẫn giữ lại các phù hiệu của Đồng Minh và được sử dụng trong các ý định xâm nhập vào các đội hình B-17 để báo các về vị trí và cao độ của các nhóm này. Việc thực hành này ban đầu khá thành công, nhưng các đội bay Không lực nhanh chóng phát triển và thành lập quy trình chuẩn để trước tiên cảnh báo, rồi khai hỏa vào mọi " kẻ lạ" cố xâm nhập vào đội hình của nhóm.[11] Những máy bay B-17 khác được sử dụng để xác định những điểm mong manh của chiếc máy bay và để huấn luyện chiến thuật cho các phi công tiêm kích đánh chặn Đức.[57] Một ít máy bay vẫn còn sống sót và được phe Đồng Minh tìm thấy sau chiến tranh.

[sửa] Hoạt động sau chiến tranh

Sau Thế Chiến II, chiếc B-17 được xem là đã lạc hậu và được Không lực Lục quân Mỹ cho nghỉ hưu hầu hết máy bay của họ. Các đội bay mang chiếc máy bay ném bom của họ băng qua Đại Tây Dương trở về Mỹ, nơi hầu hết được tháo dỡ và nấu chảy. Bộ chỉ huy Không quân Chiến lược Không quân có những chiếc B-17 Flying Fortress (ban đầu được gọi là F-9 do từ Fotorecon, trinh sát hình ảnh, sau này là RB-17s) hoạt động từ năm 1946 đến năm 1951. Nhiều chiếc B-17 cùng với các kiểu máy bay ném bom khác thời Thế Chiến II được chuyển sang làm máy bay hành khách dân dụng. Những chiếc B-17 khác kéo dài thời gian phục vụ anh hùng của nó sang máy bay chở nước trên không dùng để chống lại cháy rừng vùng Tây Bắc Hoa Kỳ.[58] Hiện nay còn khoảng một tá chiếc B-17 còn bay được trong khoảng năm chục khung máy bay còn sống sót. Nhiều chiếc trong số này là những máy bay dư thừa hoặc máy bay huấn luyện, vốn được giữ lại Mỹ trong Thế Chiến II. Tuy nhiên, cũng có vài ngoại lệ.

[sửa] Các phiên bản/giai đoạn thiết kế

Bài chi tiết: Các phiên bản B-17 Flying Fortress
Số lượng sản xuất
Phiên bản Số lượng Chuyến bay đầu
Kiểu 299 1 28 tháng 7 năm 1935[1]
YB-17 13 2 tháng 12 năm 1936[59]
YB-17A 1 29 tháng 4 năm 1938.[23]
B-17B 39 27 tháng 6 năm 1939[39]
B-17C 38 21 tháng 7 năm 1940[60]
B-17D 42 3 tháng 2 năm 1941[61]
B-17E 512 5 tháng 9 năm 1941[62]
B-17F 3.405 30 tháng 5 năm 1942[63]
B-17F-BO 2.300
B-17F-DL 605
B-17F-VE 500
B-17G 8,680
B-17G-BO 4.035
B-17G-DL 2.395
B-17G-VE 2.250
Tổng cộng 12.731

Chiếc B-17 trãi qua nhiều biến đổi trong mỗi giai đoạn thiết kế và các phiên bản. Trong số 13 chiếc YB-17 được đặt hàng để thử nghiệm hoạt động, 12 chiếc được Liên đội Ném bom 2 tại Langley Field, Virginia sử dụng để phát triển kỹ thuật ném bom hạng nặng, còn chiếc thứ 13 được dùng cho bay thử nghiệm cho Material Division tại Wright Field, Ohio.[22] Các thử nghiệm trên chiếc máy bay này đã dẫn đến việc sử dụng bộ turbo siêu tăng áp, sau này là trang bị tiêu chuẩn cho tất cả các dòng B-17. một chiếc thứ 14, chiếc Y1B-17A, nguyên thủy được dự định chỉ để thử nghiệm trên mặt đất, được nâng cấp với bộ turbo tăng áp. Sau khi máy bay này hoàn tất công việc thử nghiệm, nó được đặt lại tên là B-17A, và vào tháng 4 năm 1938 là máy bay đầu tiên được đưa vào hoạt động dưới tên gọi là B-17.[22][24]

Khi dây chuyền sản xuất phát triển, các kỹ sư của Boeing tiếp tục cải tiến dựa trên thiết kế căn bản. Để cải thiện tính năng bay ở tốc độ thấp, chiếc B-17B được thay đổi để có bánh lái hướng và cánh nắp lớn hơn.[39] Chiếc B-17C thay đổi từ những khẩu súng ló ra thành phẳng và các cửa sổ có hình bầu dục.[60] Đáng kể nhất là với phiên bản B-17E, thân máy bay được kéo dài thêm 10 feet, cánh đuôi đứng và bánh lái hướng lớn hơn được tích hợp vào thiết kế căn bản, một vị trí súng máy ở đuôi và một mũi máy bay cải tiến được thêm vào. Động cơ được nâng cấp nhiều lần lên những phiên bản mạnh mẻ hơn, và tương tự như vậy, các vị trí súng được thay đổi trong nhiều dịp nhằm tăng cường hiệu quả của chúng.[62]

Cho đến khi phiên bản cuối cùng B-17G xuất hiện, số lượng súng máy đã tăng từ bảy lên mười ba khẩu, thiết kế các vị trí súng được cố định, và các điều chỉnh khác cũng hoàn tất. Chiếc B-17G là phiên bản chót của B-17, bao gồm mọi thay đổi đã thực hiện trên phiên bản trước đó, chiếc B-17F, và có tổng cộng 8.680 chiếc được chế tạo, chiếc cuối cùng vào ngày 9 tháng 4 năm 1945.[64] Nhiều chiếc B-17G được cải biến cho những nhiệm vụ khác như vận chuyển hàng hóa, thử nghiệm động cơ và trinh sát hình ảnh.[65] Ban đầu được đặt tên là SB-17G, một số chiếc B-17G cũng được cải biến cho nhiệm vụ tìm kiếm và giải cứu, sau đó được đặt lại tên là B-17H.[66]

Chiếc SB-17G Flying Fortress, số hiệu 44-83722, còn được gọi là B-17H, dùng làm máy bay tìm kiếm và giải cứu. Khung máy bay này sau đó được sử dụng như là một mục tiêu trong ba chiến dịch thử nghiệm nguyên tử Snapper tại Yucca Flats trong thập niên 1950 và bị hư hại nặng. Phần còn lại được sử dụng để phục hồi khung máy bay số hiệu 44-85813 tại Urbana, Ohio.
Chiếc SB-17G Flying Fortress, số hiệu 44-83722, còn được gọi là B-17H, dùng làm máy bay tìm kiếm và giải cứu. Khung máy bay này sau đó được sử dụng như là một mục tiêu trong ba chiến dịch thử nghiệm nguyên tử Snapper tại Yucca Flats trong thập niên 1950 và bị hư hại nặng. Phần còn lại được sử dụng để phục hồi khung máy bay số hiệu 44-85813 tại Urbana, Ohio.

Hai phiên bản của chiếc B-17 đã bay dưới những tên khác, đó là chiếc XB-38 và chiếc YB-40. Chiếc XB-38 là một nền tảng dùng trong thử nghiệm kiểu động cơ Allison V-1710 làm mát bằng nước, dự phòng trường hợp kiểu động cơ Wright được sử dụng bình thường trên chiếc B-17 không sẵn có. Chiếc YB-40 là một phiên bản cải tiến dựa trên chiếc B-17 tiêu chuẩn được vũ trang mạnh, được sử dụng trước khi kiểu máy bay tiêm kích hộ tống tầm xa rất hiệu quả P-51 Mustang được đưa ra hoạt động hộ tống việc ném bom. Vũ khí bổ sung bao gồm một tháp súng vận hành bằng điện tại phòng điện báo, tháp súng cằm (được tiếp tục trở thành trang bị tiêu chuẩn trên phiên bản B-17G) và hai súng máy 12,7 mm (0,50 inch) bên hông. Tổng số đạn được mang theo là trên 11.000 viên, làm cho chiếc YB-40 nặng hơn trên 4.500 kg (10.000 lb) so với một chiếc B-17F chất đầy tải. Không may là, chiếc YB-40 với rất nhiều trang bị nặng gặp phải vấn đề không theo kịp tốc độ những chiếc máy bay ném bom rỗng, và do đó, cùng với sự ra đời của chiếc P-51 Mustang, kế hoạch bị dừng là cuối cùng kết thúc vào tháng 7 năm 1943.[67][68]

Vào cuối Thế Chiến II, có ít nhất 25 máy bay B-17 được trang bị hệ thống điều khiển bằng radio và chất đầy 9.000 kg (20.000 lb) chất nổ, được đặt tên là "tên lửa Aphrodite BQ-7", và được sử dụng để chống lại các tàu ngầm U-boat và các công sự đề kháng bom. Vì hầu như rất ít (hoặc không có) chiếc BQ-7 nào trúng đích, những chiếc trong kế hoạch Aphrodite bị tháo bỏ vào năm 1945.[69][70] Trong và sau Thế Chiến II, một số lọai vũ khí được thử nghiệm và sử dụng trên chiếc B-17, trong số đó có bom lượn "razon" (điều khiển bằng radio), và Ford-Republic JB-2 Loon (còn có tên lóng là Thunderbugs), một kiểu mẫu sao chép kỹ thuật của Mỹ từ kiểu bom bay Đức V-1. Một đoạn phim về chiếc V-1/JB-2 đang bay trên không được sử dụng nhiều trong các tài liệu thời Thế Chiến II thực ra được quay từ một máy bay Không lực Mỹ A-26 tại Căn cứ Không quân Eglin, và được phóng từ đảo Santa Rosa, Florida. Vào cuối những năm 1950, những chiếc B-17 cuối cùng hoạt động trong Không quân Hoa Kỳ là những máy bay mục tiêu giả QB-17 và máy bay điều khiển mục tiêu giả DB-17P, cùng một vài chiếc VB-17 tân trang được sử dụng linh tinh tại các phi đội. Phi vụ hoạt động cuối cùng của chiếc Fortress Không quân là vào ngày 6 tháng 8 năm 1959, khi chiếc DB-17P số hiệu 44-83684 điều khiển một chiếc QB-17G số hiệu 44-83717 bên ngoài Căn cứ Không quân Holloman như là một mục tiêu để bắn tên lửa không-đối-không Falcon từ một máy bay tiêm kích F-101 Voodoo. Một buổi lễ đánh dấu sự nghỉ hưu được tổ chức nhiều ngày sau đó tại Holloman, và sau đó chiếc máy bay số hiệu 44-83684 được đưa đến nghỉ hưu tại Căn cứ Không quân Davis-Monthan.

[sửa] Chiếc Fortress như là một biểu trưng

Bên trên bầu trời nước Đức, những chiếc B-17 Flying Fortress thuộc Liên đội Ném bom 398 trong phi vụ ném bom xuống Neumunster, Đức, vào ngày 13 tháng 4 năm 1945.
Bên trên bầu trời nước Đức, những chiếc B-17 Flying Fortress thuộc Liên đội Ném bom 398 trong phi vụ ném bom xuống Neumunster, Đức, vào ngày 13 tháng 4 năm 1945.

Chiếc B-17 Flying Fortress, vì nhiều lý do, đã trở nên một biểu trưng cho sức mạnh của Hoa Kỳ và cũng là một biểu trưng của Không lực nước này. Nó đạt được một tiếng tăm kéo dài trong công luận, vượt quá đa số các máy bay ném bom khác.[8]

Trong những năm 1930, Không lực Lục quân Hoa Kỳ, dưới sự lãnh đạo của Tướng Frank Maxwell Andrews và Trường Chiến thuật Không lực, đã giới thiệu chiếc máy bay ném bom này như là một vũ khí chiến lược.[71] Tướng Henry H. Arnold, tư lệnh Không lực Lục quân Mỹ, chủ trương phát triển máy bay lớn hơn có tính năng bay tốt hơn và Trường Chiến thuật đã hoàn toàn tán thành.[72] Chiếc B-17 đúng là những gì mà Không lực đang tìm kiếm; nó là kiểu máy bay ném bom bay ở tầm cao, quãng đường bay xa và có khả năng tự phòng vệ.

Khi chiếc Kiểu 299 lần đầu tiên ra mắt vào ngày 28 tháng 7 năm 1935, tua tủa với nhiều khẩu súng máy được trang bị, Richard Williams, một thông tín viên của tờ báo Seattle Times đã đặt ra cái tên "Flying Fortress" với lời bình luận của ông "Tại sao, nó là một pháo đài bay được!".[9] Boeing nhanh chóng nhận ra giá trị của cái tên và đã đăng ký nhãn hiệu để sử dụng nó.

Sau khi những chiếc B-17 đầu tiên được giao đến Liên đội Ném bom 2 Không lực Mỹ, họ bắt đầu thực hiện những chuyến bay quãng bá nhằm nhấn mạnh tầm bay xa và khả năng dẫn đường chính xác. Vào đầu năm 1938, Chỉ huy Liên đội là Đại tá Robert C. Olds đã bay chiếc Y1B-17 từ bờ Đông đến bờ Tây nước Mỹ, lập một kỹ lục bay xuyên lục địa trong 12 giờ 50 phút. Ông cũng phá kỹ lục bay từ Tây sang Đông trong chuyến bay trở về, đạt tốc độ trung bình 245 dặm mỗi giờ trong 10 giờ 46 phút. Sáu chiếc máy bay thuộc Liên đội Ném bom 2 đã cất cánh từ Căn cứ Không quân Langley vào ngày 15 tháng 2 năm 1938 để bay chuyến bay hữu nghị đến Buenos Aires, Argentina. Trãi qua 12.000 dặm, họ quay trở về vào ngày 27 tháng 2.[59] Trong một phi vụ được công bố rộng rãi trên báo chí, ba chiếc B-17 đã "đánh chặn" và chụp ảnh chiếc tàu hành khách vượt đại dương Italy Rex 800 dặm ngoài bờ biển Đại Tây Dương.[21]

Chiếc Flying Fortress cũng chiếm được chỗ trong tinh thần của công chúng. Vào năm 1943, Consolidated Aircraft tiến hành thăm dò ý kiến xem “công chúng quen thuộc đến mức nào những cái tên Liberator và Flying Fortress.” Trong số 2.500 đàn ông tại các thành phố nơi mà Consolidated có thực hiện quảng cáo trên báo chí, chỉ có 73% từng nghe đến Liberator, trong khi đến 90% biết về chiếc B-17.[8]

Chiếc B-17G số hiệu 43-38172 thuộc Liên đội Ném bom 398 bị hư hại trong phi vụ ném bom xuống Cologne, Đức, vào ngày 15 tháng 10 năm 1944; sĩ quan ném bom bị thiệt mạng. Phi công Trung úy Lawrence De Lancey đã đem chiếc Fortress bị hư hại quay trở về được Nuthampstead, Anh Quốc, nơi ảnh được chụp. Chú ý đến hiệu quả hướng lên trên của trái đạn pháo phòng không.
Chiếc B-17G số hiệu 43-38172 thuộc Liên đội Ném bom 398 bị hư hại trong phi vụ ném bom xuống Cologne, Đức, vào ngày 15 tháng 10 năm 1944; sĩ quan ném bom bị thiệt mạng. Phi công Trung úy Lawrence De Lancey đã đem chiếc Fortress bị hư hại quay trở về được Nuthampstead, Anh Quốc, nơi ảnh được chụp. Chú ý đến hiệu quả hướng lên trên của trái đạn pháo phòng không.

Trong chiến tranh, Không lực 8, lực lượng ném bom tấn công lớn nhất, được chỉ huy bởi các sĩ quan từng công khai ưa chuộng chiếc B-17. Trung tướng Jimmy Doolittle đã viết về sở thích của ông để trang bị B-17 cho Không lực 8. Dẫn chứng ưu thế về tiếp liệu khi giữ các đơn vị ở tiền phương có số chủng loại máy bay tối thiểu với việc bảo trì và phụ tùng đặc trưng, ông mong mỏi được trang bị máy bay ném bom B-17 và máy bay tiêm kích P-51. Quan điểm của ông được các nhà phân tích thống kê của Không lực 8 ủng hộ, khi các nghiên cứu thừa nhận những chiếc Fortress có tính năng động và khả năng sống sót lớn hơn nhiều so với chiếc B-24.[8]

Được ưa chuộng bởi các đội bay vì đưa được họ về nhà cho dù bị thiệt hại nặng nề trong chiến đấu, sự bền bỉ của nó, đặc biệt là khả năng đáp bằng bụng và đáp trên mặt biển, nhanh chóng trở nên huyền thoại.[73][74][7] Những câu chuyện và hình ảnh về những chiếc B-17 sống sót sau các hư hại trong chiến đấu được lưu truyền rộng rãi, nâng cao tính biểu trưng của nó.[8] Cho dù có tính năng bay và tải trọng bom kém hơn so với những chiếc B-24 Liberator có số lượng nhiều hơn,[9] một cuộc khảo sát trên các đội bay của Không lực 8 cho thấy một tỉ lệ hài lòng nhiều hơn trên chiếc B-17.[10]

Chiếc máy bay B-17 nổi tiếng nhất, chiếc Memphis Belle, đã được cho bay cùng với đội bay của nó vòng quanh nước Mỹ để củng cố tinh thần quốc gia (và để bán Trái phiếu Chiến tranh), và đã xuất hiện trong một phim tài liệu của Không lực Mỹ: Memphis Belle: A Story of a Flying Fortress.[75]

Sau khi chiến tranh kết thúc, đa số những chiếc B-17 bị tháo dỡ, nhưng Không quân Mỹ có giữ lại một số chiếc B-17 dành để chuyên chở các yếu nhân và hướng dẫn mục tiêu giả. Hải quân và lực lượng Phòng vệ Duyên hải sở hữu 30 chiếc B-17 từ năm 1945, được sử dụng để tuần tra biển, dưới tên gọi PB-1G như là máy bay tìm kiếm cứu nạn, tương tự như chiếc B-17H của Không lực; và kiểu PB-1W, máy bay tuần tra duyên hải trang bị radar cảnh báo sớm. Chiến trang đã kết thúc trước khi những chiếc PB-1W được đưa vào hoạt động và các trang bị phòng vệ sau đó được tháo bỏ. Lực lượng Phòng vệ Duyên hải cho nghỉ hưu chiếc PB-1G cuối cùng số hiệu 77254 vào tháng 10 năm 1959, là chiếc Fortress cuối cùng hoạt động trong quân đội Mỹ.

[sửa] Các nước sử dụng

Các nước sử dụng B-17 quân sự
Các nước sử dụng B-17 quân sự
Các nước sử dụng B-17 dân sự
Các nước sử dụng B-17 dân sự
Bài chi tiết: Danh sách các đơn vị sử dụng B-17 Flying Fortress

Chiếc B-17 là một máy bay linh hoạt, hoạt động trong nhiều đơn vị Không lực Mỹ tại nhiều chiến trường trong suốt Thế Chiến II, và trong những vai trò không ném bom trong Không quân Hoàng gia Anh. Nó được sử dụng chủ yếu tại Mặt trận Châu Âu, nơi mà tầm bay ngắn hơn và tải trọng bom ít hơn so với các máy bay khác không ảnh hưởng nhiều như tại Mặt trận Thái Bình Dương. Số lượng máy bay phục vụ cho Không lực Mỹ vào lúc cao điểm (tháng 8 năm 1944) là 4.574 chiếc trên khắp thế giới.[32]

Flag of Argentina Argentina
Flag of Bolivia Bolivia
Brasil
Flag of Canada Canada
Flag of Colombia Colombia
Flag of Đan Mạch Đan Mạch
Flag of Cộng hòa Dominican Cộng hòa Dominican
Flag of Pháp Pháp
Cờ Đức Germany
Cờ Iran Iran
Flag of Israel Israel
Flag of Nhật Bản Nhật Bản
Mexico
Cờ Nicaragua Nicaragua
Cờ Peru Peru
Bồ Đào Nha
Cờ Cộng hòa Nam Phi South Africa
Flag of Liên Xô Liên Xô
Thụy Điển
Anh
Cờ Hoa Kỳ Hoa Kỳ

[sửa] Đặc điểm kỹ thuật (B-17G)

Hình chiếu 3-chiều chiếc B-17G, với chi tiết kiểu cánh đuôi "Cheyenne" và vài biến thể chính
Hình chiếu 3-chiều chiếc B-17G, với chi tiết kiểu cánh đuôi "Cheyenne" và vài biến thể chính

Nguồn: The Encyclopedia of World Aircraft[23]

[sửa] Đặc tính chung

  • Đội bay: 10 người: Phi công, phi công phụ, hoa tiêu, ném bom/xạ thủ súng máy mũi, kỹ sư/xạ thủ tháp súng lưng, điện báo viên, xạ thủ súng máy hông (2 người), xạ thủ tháp súng bụng, xạ thủ pháo đuôi.[76]
  • Chiều dài: 22,66 m (74 ft 4 in)
  • Sải cánh: 31,62 m (103 ft 9 in)
  • Chiều cao: 5,82 m (19 ft 1 in)
  • Diện tích bề mặt cánh: 131,92 m² (1.420 ft²)
  • Kiểu cánh: NACA 0018 / NACA 0010
  • Lực nâng của cánh : 185,7 kg/m² (38,0 lb/ft²)
  • Trọng lượng không tải: 16.391 kg (36.135 lb)
  • Trọng lượng có tải: 24.495 kg (54.000 lb)
  • Trọng lượng cất cánh tối đa: 29.710 kg (65.500 lb)
  • Động cơ: 4 x động cơ Wright R-1820-97 "Cyclone" bố trí vòng tròn có siêu tăng áp, công suất 1.200 mã lực (895 kW) mỗi động cơ

[sửa] Đặc tính bay

  • Tốc độ lớn nhất: 462 km/h (249 knot, 287 mph)
  • Tốc độ bay đường trường: 293 km/h (158 knot, 182 mph)
  • Tầm bay tối đa: 3.219 km (1.738 nm, 2.000 mi) với 2.722 kg (6.000 lb) bom
  • Trần bay: 10.850 m (35.600 ft)
  • Tốc độ lên cao: 4,6 m/s (900 ft/min)
  • Tỉ lệ lực đẩy/khối lượng : 0,15 kW/kg (0,089 hp/lb)

[sửa] Vũ khí

  • 13 x súng máy Browning M2 12,7 mm (0,50 in), 281 viên đạn mỗi khẩu
  • Bom:
    • Lý thuyết tối đa: 7.900 kg (17.417 lb) bom. Thực tế hiếm khi mang nhiều hơn 2300 kg (5.071 lb).
    • Tầm bay ngắn (<400 mi): 3.600 kg (8.000 lb)
    • Tầm bay dài (≈800 mi): 2.000 kg (4.500 lb)

[sửa] Tham khảo

Chi tiết súng máy đuôi chiếc B-17, Duxford
Chi tiết súng máy đuôi chiếc B-17, Duxford
B-17 Flying Fortress nhìn từ bên trên
B-17 Flying Fortress nhìn từ bên trên
  1. ^ a b "The Boeing Logbook: 1933 – 1938". Boeing.com.
  2. ^ Yenne, Bill. B-17 at War. St Paul, Minnesota: Zenith Imprint, 2006.ISBN 0-7603-2522-7. p. 8.
  3. ^ Bowers, Peter M. (1976). Fortress in the Sky, Granada Hills, California: Sentry Books Inc.. ISBN 0-913194-04-2.
  4. ^ a b c Carey, Brian Todd (1998). “Operation Pointblank: Evolution of Allied Air Doctrine During World War II”. World War II (November): p. 4.
  5. ^The Story of the B-17”, B-17 Pilot Training Manual, Headquarters, AAF, Office of Flying Safety. Địa chỉ URL được truy nhập ngày 16 January. “The B-17's incredible capacity to take it — to come flying home on three, two, even one engine, sieve-like with flak and bullet holes, with large sections of wing or tail surfaces shot away — has been so widely publicized that U. S. fighting men could afford to joke about it" and "one important fact stands clear-cut now. The Flying Fortress is a rugged airplane
  6. ^ Browne, Robert W. (Winter 2001). “The Rugged Fortress: Life-Saving B-17 Remembered”. Flight Journal: WW II Bombers (Winter 2001).
  7. ^ a b "B-17 Flying Fortress". www.b17fortress.de (2006).
  8. ^ a b c d e Johnson, Frederick A. (2006). “The Making of an Iconic Bomber”. Air Force Magazine 89 (10).
  9. ^ a b c d Baugher, Joe. "Boeing Model 299". Encyclopedia of American Aircraft. Được truy cập ngày 12 January, 2007.
  10. ^ a b "B-17:Best Airplane". B-17 Flying Fortress:Queen of the Skies. Được truy cập ngày 9 January, 2007.
  11. ^ a b c d e f "Aviation Photography:B-17 Flying Fortress". Northstar Gallery. Được truy cập ngày 16 January, 2007.
  12. ^ a b c d Goebel, Greg (2005). "Fortress In Development: Model 299". The Boeing B-17 Flying Fortress. Được truy cập ngày 9 January, 2007.
  13. ^ Tate, Dr. James P. (Tháng June năm 1998). 1-42891-257-6&id=pZyLTfJFaEgC&dq=The+Army+and+Its+Air+Corps+Army+Policy+toward+Aviation The Army and Its Air Corps: Army Policy toward Aviation 1919–1941, p. 164, Maxwell Air Force Base, Alabama: Air University Press. ISBN 1428912576. Địa chỉ URL được truy nhập ngày 16 January.
  14. ^ a b Tate, Dr. James P. (Tháng June năm 1998). The Army and Its Air Corps: Army Policy toward Aviation 1919–1941, p. 165, Maxwell Air Force Base, Alabama: Air University Press. ISBN 1428912576. Địa chỉ URL được truy nhập ngày 16 January.
  15. ^ "Model 299 Crash, 15 November 1935". National Museum of the USAF. Được truy cập ngày 16 January, 2007.
  16. ^ Schamel, John. "How the Pilot's Checklist Came About". FAA Flight Service Training.
  17. ^ Salecker, Gene Eric (2001). Fortress Against the Sun: The B-17 Flying Fortress in the Pacific, p. 48, Conshohocken, Pennsylvania: Combined Publishing. ISBN 1-58097-049-4.
  18. ^ Goebel, Greg (2005). "Model 299 Flying Fortress". The Boeing B-17 Flying Fortress. Được truy cập ngày 9 January, 2007.
  19. ^ a b c Meilinger, Phillip S. (October 2004). “When the Fortress Went Down”. Air Force Magazine 87 (9).
  20. ^ Schamel, John. "How the Pilot's Checklist Came About". FAA Flight Service Training. Được truy cập ngày 12 January, 2007.
  21. ^ a b "Intercepting The “Rex”". National Museum of the USAF. Được truy cập ngày 9 January, 2007.
  22. ^ a b c "BOEING Y1B-17". National Museum of the USAF. Được truy cập ngày 9 January, 2007.
  23. ^ a b c "Boeing Model 299 (B-17 Flying Fortress)". The Encyclopedia of World Aircraft (1): p. 155. (1997). David Donald, chủ bút. Etobicoke, Ontario, Canada: Prospero Books.
  24. ^ a b c Goebel, Greg (2005). "Y1B-17/Y1B-17A". The Boeing B-17 Flying Fortress. Được truy cập ngày 9 January, 2007.
  25. ^ Baugher, Joe. "Boeing Y1B-17A/B-17A". Encyclopedia of American Aircraft. Được truy cập ngày 15 January, 2007.
  26. ^ a b Goebel, Greg (2005). "B-17B/B-17C/B-17D". The Boeing B-17 Flying Fortress. Được truy cập ngày 9 January, 2007.
  27. ^ "Boeing B-17B". National Museum of the USAF. Được truy cập ngày 9 January, 2007.
  28. ^ Eylanbekov, Zaur (2006). "Airpower Classics:B-17 Flying Fortress". Air Force Magazine. Được truy cập ngày 8 January, 2007.
  29. ^ Serling, Robert J. (1992). Legend & Legacy: The Story of Boeing and its People, p. 55, New York: St. Martin's Press. ISBN 0-312-05890-X. “At the peak of production, Boeing was rolling out as many as 363 B-17s a month—averaging between 14 and 16 Forts a day, the most incredible production rate for large aircraft in aviation history… Prior to the B-17, the Boeing Y1B-9 (first flight: 1931) had only seven production aircraft, the Martin B-10 (first flight: 1932) had total production of 213, the Farman F.222 (first flight: 1932) had only 24 constructed and the Handley Page Heyford (first flight: 1933) had a total of 125 built. The B-17 easily eclipsed these numbers.”
  30. ^ Yenne, Bill (2006). B-17 at War, p. 6, St Paul, Minnesota: Zenith Imprint. ISBN 0-7603-2522-7.
  31. ^ Carey, Brian Todd (1998). “Operation Pointblank: Evolution of Allied Air Doctrine During World War II”. World War II (November): p. 4.
  32. ^ a b Baugher, Joe. "B-17 Squadron Assignments". Encyclopedia of American Aircraft. Được truy cập ngày 15 January, 2007.
  33. ^ Yenne, Bill (2006). B-17 at War, p. 23, St Paul, Minnesota: Zenith Imprint. ISBN 0-7603-2522-7.
  34. ^ Chant, Christopher (1996). Warplanes of the 20th Century, p. 61–62, London: Tiger Books International. ISBN 1-85501-807-1.
  35. ^ a b Goebel, Greg (2005). "RAF Fortress I In Combat". The Boeing B-17 Flying Fortress. Được truy cập ngày 9 January, 2007.
  36. ^ a b Baugher, Joe. "Fortress I for RAF". Encyclopedia of American Aircraft. Được truy cập ngày 15 January, 2007.
  37. ^ Gustin, Emmanuel. "Boeing B-17". uboat.net. Được truy cập ngày 2 April, 2007.
  38. ^ "U-627". Uboat.net. Được truy cập ngày 2 April, 2007.
  39. ^ a b c Baugher, Joe. "Boeing B-17B Fortress". Encyclopedia of American Aircraft. Được truy cập ngày 15 January, 2007.
  40. ^ "Boeing B-17 Flying Fortress – USA". The Aviation History Online Museum. Được truy cập ngày 16 January, 2007.
  41. ^ a b Goebel, Greg (2005). "Fortress Over Europe". The Boeing B-17 Flying Fortress. Được truy cập ngày 9 January, 2007.
  42. ^ Walden, Geoff (tháng January năm 2007). "Third Reich in Ruins:Schweinfurt". www.thirdreichruins.com. Được truy cập ngày 16 January, 2007.
  43. ^ McKillop, Jack. "Combat Chronology of the US Army Air Forces: February 1944". www.usaaf.net. Được truy cập ngày 17 January, 2007.
  44. ^ Trueman, Chris. "B-17 Flying Fortress". www.historylearningsite.co.uk. Được truy cập ngày 16 January, 2007.
  45. ^ McKillop, Jack. "Combat Chronology of the US Army Air Forces: April 1945". www.usaaf.net. Được truy cập ngày 17 January, 2007.
  46. ^ Frisbee, John L. (December 1990). “Valor:Skip-Bombing Pioneer”. Air Force Magazine 73 (12).
  47. ^ "History:B-17 Flying Fortress". Boeing.com. Được truy cập ngày 16 January, 2007.
  48. ^ "Formation". www.b17flyingfortress.de. Được truy cập ngày 9 January, 2007.
  49. ^Formation”, B-17 Pilot Training Manual, Headquarters, AAF, Office of Flying Safety. Địa chỉ URL được truy nhập ngày 16 January.
  50. ^ Caidin, Martin (1960). Black Thursday, New York: E.P. Dutton & Co. Inc.. ISBN 0-553-26729-9.
  51. ^ Hoffman, Wally (2006). "We Get Our Feet Wet". Magweb.com. Được truy cập ngày 18 July, 2006.
  52. ^ Caidin, Martin. Black Thursday. New York: E.P. Dutton & Co. Inc., 1960, p. 86. ISBN 0-553-26729-9.
  53. ^ "Battle-damaged B-17s". www.daveswarbirds.com. Được truy cập ngày 16 January, 2007.
  54. ^ Price, Alfred (September 1993). “Against Regensburg and Schweinfurt”. Air Force Magazine 76 (9).
  55. ^ Schollars, Todd J. (Fall 2003). "German wonder weapons: degraded production and effectiveness". Air Force Journal of Logistics. Được truy cập ngày 16 January, 2007.
  56. ^ a b Law, Ricky (1997). "Dornier Do 200". Arsenal of Dictatorship. Được truy cập ngày 16 January, 2007.
  57. ^ Goebel, Greg (2005). "Fortress Oddballs". The Boeing B-17 Flying Fortress. Được truy cập ngày 9 January, 2007.
  58. ^ Baugher, Joe. "B-17 Commercial Transports". Encyclopedia of American Aircraft. Được truy cập ngày 15 January, 2007.
  59. ^ a b Baugher, Joe. "Boeing Y1B-17". Encyclopedia of American Aircraft. Được truy cập ngày 15 January, 2007.
  60. ^ a b Baugher, Joe. "Boeing B-17C Fortress". Encyclopedia of American Aircraft. Được truy cập ngày 15 January, 2007.
  61. ^ Baugher, Joe. "Boeing B-17D Fortress". Encyclopedia of American Aircraft. Được truy cập ngày 15 January, 2007.
  62. ^ a b Baugher, Joe. "Boeing B-17E Fortress". Encyclopedia of American Aircraft. Được truy cập ngày 15 January, 2007.
  63. ^ Baugher, Joe. "Boeing B-17F Fortress". Encyclopedia of American Aircraft. Được truy cập ngày 15 January, 2007.
  64. ^ "Chronicle". www.b17flyingfortress.de. Được truy cập ngày 16 January, 2007.
  65. ^ Goebel, Greg (2005). "B-17G/Fortress Triumphant". The Boeing B-17 Flying Fortress. Được truy cập ngày 9 January, 2007.
  66. ^ Baugher, Joe. "Boeing B-17H". Encyclopedia of American Aircraft. Được truy cập ngày 15 January, 2007.
  67. ^ Baugher, Joe. "Vega XB-38". Encyclopedia of American Aircraft. Được truy cập ngày 15 January, 2007.
  68. ^ Baugher, Joe. "Boeing YB-40". Encyclopedia of American Aircraft. Được truy cập ngày 15 January, 2007.
  69. ^ Baugher, Joe. "History of the BQ-7". Encyclopedia of American Aircraft. Được truy cập ngày 15 January, 2007.
  70. ^ Parsch, Andreas (tháng March năm 2003). "Boeing BQ-7 Aphrodite". Directory of U.S. Military Rockets and Missiles. Được truy cập ngày 16 January, 2007.
  71. ^ Tate, Dr. James P. (Tháng June năm 1998). 1-42891-257-6&id=pZyLTfJFaEgC&dq=The+Army+and+Its+Air+Corps+Army+Policy+toward+Aviation The Army and Its Air Corps: Army Policy toward Aviation 1919–1941, p. 149–150, Maxwell Air Force Base, Alabama: Air University Press. ISBN 1-42891-257-6. Địa chỉ URL được truy nhập ngày 16 January. “Báo cáo của Ủy ban Howell… khẳng định "…một lực lượng tấn công thích đáng được sử dụng chống lại các mục tiêu cả gần và xa là một nhu cầu của một quân đội hiện đại…”
  72. ^ Tate, Dr. James P. (Tháng June năm 1998). 1-42891-257-6&id=pZyLTfJFaEgC&dq=The+Army+and+Its+Air+Corps+Army+Policy+toward+Aviation The Army and Its Air Corps: Army Policy toward Aviation 1919–1941, p. 161, Maxwell Air Force Base, Alabama: Air University Press. ISBN 1-42891-257-6. Địa chỉ URL được truy nhập ngày 16 January. “Đối với họ dường như là chiếc máy bay ném bom là vô địch. Họ tranh luận rằng cường kích đã lỗi thời và tấn công là một điều xa xỉ, vì không lực sẽ có hiệu quả nhất khi được sử dụng để can thiệp sâu trong lãnh thổ đối phương và ném bom chiến lược nhằm phá hủy phương tiện và ý chí chiến đấu của đối phương.”
  73. ^The Story of the B-17”, B-17 Pilot Training Manual, Headquarters, AAF, Office of Flying Safety. Địa chỉ URL được truy nhập ngày 16 January 2007. “Khả năng lạ thường của chiếc B-17 - có khả năng quay về nhà với ba, hai, thậm chí một động cơ, thân như một cái sàng với những lổ đạn, với một phần lớn cánh hay đuôi bị bắn rời - được loan truyền rộng rãi trong công luận rằng các binh sĩ Hoa Kỳ có thể đùa với nó" và "một điều quan trọng giờ trở nên dứt khoát: Chiếc Flying Fortress là mộtmáy bay chắc chắn
  74. ^ Browne, Robert W. (Winter 2001). “The Rugged Fortress: Life-Saving B-17 Remembered”. Flight Journal: WW II Bombers (Winter 2001).
  75. ^ "The Memphis Belle: A Story of a Flying Fortress (1944)". Internet Movie Database. Được truy cập ngày 16 January, 2007.
  76. ^ "B-17 Flying Fortress Crew Positions". Arizona Wing CAF Museum. Được truy cập ngày 16 January, 2007.
  • Birdsall, Steve (1965). The B-17 Flying Fortress, Dallas, Texas: Morgan Aviation Books.
  • Bowers, Peter M. (1989). Boeing Aircraft Since 1916, Annapolis: Naval Institute Press. ISBN 0-37000-016-1. Địa chỉ URL được truy nhập ngày 18 December 2006.
  • Bowman, Martin W. (2000). Castles in the Air: The Story of the B-17 Flying Fortress Crews of the U.S. 8th Air Force, 216, Potomac Books. ISBN 1-57488-320-8.
  • Caidin, Martin (1960). Black Thursday, New York, New York: E.P. Dutton & Company. ISBN 0-553-26729-9.
  • Davis, Larry (1984). B-17 in Action, Carrollton, Texas: Squadron/Signal Publications. ISBN 0-89747-152-0.
  • Freeman, Roger A. (1977). B-17 Fortress at War, New York: Charles Scribner's Sons. ISBN 0-684-14872-2.
  • Hess, William N (1994). B-17 Flying Fortress: Combat and Development History of the Flying Fortress, St. Paul, Minnesota: Motorbook International. ISBN 0-87938-881-1.
  • Hess, William N (2003). B-17 Flying Fortress Units of the MTO, Botley, Oxford: Osprey Publishing Limited. ISBN 1-84176-580-5.
  • Hess, William N (1998). Big Bombers of WWII, Ann Arbor, Michigan: Lowe & B. Hould. ISBN 0-681-07570-8.
  • Jablonski, Edward (1965). Flying Fortress, New York: Doubleday. ISBN 0-385-03855-0.
  • Johnson, Frederick A (2001). Boeing B-17 Flying Fortress, Stillwater, Minnesota: Voyageur Press. ISBN 1-58007-052-3.
  • Lloyd, Alwyn T (1986). B-17 Flying Fortress in Detail and Scale, Fallbrook, California: Aero Publishers. ISBN 0-8168-5029-1.
  • O'Leary, Michael (1999). Boeing B-17 Flying Fortress (Osprey Production Line to Frontline 2), Botley, Oxford, United Kingdom: Osprey Publishing. ISBN 1-85532-814-3.
  • Salecker, Gene Eric (2001). Fortress Against The Sun – The B-17 Flying Fortress in the Pacific (Combined Publishing), Conshohocken, Pennsylvania, USA: Combined Publishing. ISBN 1-58097-049-4.
  • Thompson, Scott A (2000). Final Cut: The Post War B-17 Flying Fortress, The Survivors: Revised and Updated Edition, Highland County, Ohio: Pictorial Histories Publishing Company. ISBN 1-57510-077-0.
  • Willmott, H.P. (1980). B-17 Flying Fortress, London: Bison Books. ISBN 0-85368-444-8.

[sửa] Liên kết ngoài

[sửa] Nội dung liên quan

[sửa] Máy bay liên quan

  • Boeing XB-15
  • XB-38 Flying Fortress
  • YB-40 Flying Fortress

[sửa] Máy bay tương tự

  • Avro Lancaster
  • B-24 Liberator
  • Focke-Wulf Fw 200
  • Handley-Page Halifax
  • Heinkel He 177
  • Junkers Ju 290
  • Petlyakov Pe-8
  • Piaggio P.108B
  • Short Stirling

[sửa] Trình tự thiết kế

  • Quân sự: XB-14 – XB-15 – XB-16 – B-17 – B-18 – XB-19 – Y1B-20
  • Boeing: 266 – 281 – 294 – 299 – 300 – 307 – 314

[sửa] Danh sách liên quan


aa - ab - af - ak - als - am - an - ang - ar - arc - as - ast - av - ay - az - ba - bar - bat_smg - bcl - be - be_x_old - bg - bh - bi - bm - bn - bo - bpy - br - bs - bug - bxr - ca - cbk_zam - cdo - ce - ceb - ch - cho - chr - chy - co - cr - crh - cs - csb - cu - cv - cy - da - de - diq - dsb - dv - dz - ee - el - eml - en - eo - es - et - eu - ext - fa - ff - fi - fiu_vro - fj - fo - fr - frp - fur - fy - ga - gan - gd - gl - glk - gn - got - gu - gv - ha - hak - haw - he - hi - hif - ho - hr - hsb - ht - hu - hy - hz - ia - id - ie - ig - ii - ik - ilo - io - is - it - iu - ja - jbo - jv - ka - kaa - kab - kg - ki - kj - kk - kl - km - kn - ko - kr - ks - ksh - ku - kv - kw - ky - la - lad - lb - lbe - lg - li - lij - lmo - ln - lo - lt - lv - map_bms - mdf - mg - mh - mi - mk - ml - mn - mo - mr - mt - mus - my - myv - mzn - na - nah - nap - nds - nds_nl - ne - new - ng - nl - nn - no - nov - nrm - nv - ny - oc - om - or - os - pa - pag - pam - pap - pdc - pi - pih - pl - pms - ps - pt - qu - quality - rm - rmy - rn - ro - roa_rup - roa_tara - ru - rw - sa - sah - sc - scn - sco - sd - se - sg - sh - si - simple - sk - sl - sm - sn - so - sr - srn - ss - st - stq - su - sv - sw - szl - ta - te - tet - tg - th - ti - tk - tl - tlh - tn - to - tpi - tr - ts - tt - tum - tw - ty - udm - ug - uk - ur - uz - ve - vec - vi - vls - vo - wa - war - wo - wuu - xal - xh - yi - yo - za - zea - zh - zh_classical - zh_min_nan - zh_yue - zu -